Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Tăng & bồ đoàn

28 Tháng Chín 201000:00(Xem: 14868)
Thiền Tăng & bồ đoàn

Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng. Bước vào văn học, nó mang tính cách cao nhã hơn thân phận cây cỏ tầm thường. Nguyễn Công Trứ, trong bài “Kẻ sĩ” có viết:

Xe bồ luân dù chưa gặp Thang, Văn

Phù thế giáo một vài câu thanh nghị…

Xe bồ luân là loại xe có bánh đặc biệt quấn bằng cỏ bồ, các vị vua quý trọng hiền tài như vua Thang, vua Văn dùng nó để đón bậc sĩ phu ra giúp nước. Bánh xe thời cổ xưa làm bằng cây gỗ, đường sá chưa tráng nhựa, dùng cỏ đệm cho êm để xe chạy bớt dằn xóc, biểu lộ tinh thần quý trọng tha thiết của vua. Và chiếc xe bồ luân trở thành xe cao cấp đời mới, như mỗi lần chúng ta thấy một đoàn xe chở các nhân vật quan trọng chạy qua, tiền hô hậu ủng lướt êm như mơ.

bodoan2.gif

Cỏ bồ xuất hiện trong đời sống thiền sư. Thiền sư Trần Tôn Túc hiệu Đạo Minh, đời Đường quê ở Giang Nam, xuất gia giữ giới tinh nghiêm, học thông Tam tạng, tham thiền ngộ đạo nơi tổ Hoàng Bá. Được cử làm thủ tọa trong chúng, sư chính là người thúc đẩy ngài Lâm Tế đến thầy thưa hỏi. Về sau, sư về ở chùa Khai Nguyên, thường dùng cỏ bồ đan giày bán nuôi mẹ, mọi người kính trọng gọi sư là Trần Bồ Hài. Thời loạn lạc, giặc đến phá thành chỗ sư ở, mọi người đều di tản. Sư treo một chiếc giày nơi cổng, chúng đến nhìn thấy biết trong thành có bậc đạo đức bèn lui binh, dân chúng được bảo trọng. Thế lực của một chiếc giày cỏ mạnh hơn gươm giáo, cũng cho thấy tinh thần trọng đạo lý của những người gọi là giặc.

Bồ đoàn là nệm ngồi để tọa thiền, cũng giống như tọa cụ một trong 18 món phải đem theo bên mình của người hành hạnh đầu đà. Nó giúp cho thế ngồi vững chắc, dễ chịu hơn, để chống chọi với những ma trận của thân và tâm. Ngồi bao lâu, ngồi yên thế nào cho cánh cửa thiền định mở ra, thấu suốt vấn đề sinh tử, đó là việc của người tu. Đức Phật ngày xưa đã dùng cỏ để trải tòa ngồi, bó cỏ và chú mục đồng dâng cỏ đến bây giờ được khắc ghi thành một nơi chiêm bái, gần chỗ của nàng Sujata dâng bát sữa. Khách hành hương đến Ấn Độ, thăm Bồ Đề Đạo Tràng trước, sau đó mới theo xe chạy vòng qua sông Ni-liên, đến làng Sujata viếng thăm các di tích trước khi Phật thành đạo. Cũng vậy thôi, bất cứ ngôi làng nào cũng phong cảnh như nhau, nhà tranh vách đất, người và vật lam lũ, mấy con bò con dê quanh quẩn trong sân, trẻ con lem luốc hò reo với xe hành hương, chuẩn bị chạy theo xin tiền. Xe đò Ấn Độ chở người lên tận nóc, có khi một con dê nằm trên đầu xe cùng với chủ của nó, thản nhiên nhìn mọi thứ qua một lớp bụi mù. Đền thờ mục đồng dâng cỏ, nói là đền cho oai chứ thật ra chỉ là một cái nhà vừa phải, có tượng Bồ tát đưa tay nhận bó cỏ, ông mục đồng đang quỳ đó. Nói là ông mục đồnghình tượng đơn sơ lắm, chẳng có nghệ thuật chi, phía trước còn có một tấm biển ghi lại sự tích. Khách cúng tiền, thắp hương lễ lạy trong khung cảnh của thế kỷ này, có thể có người nghi ngờ không biết chỗ này có thật như vậy không? Nhìn qua bờ bên kia, hình ảnh Đại tháp Bồ Đề trùm lên cả không gian thời gian. Dù sao, dân làng bên này cũng ké được uy quang của Phật, đỡ khổ.

Thiền sư Huệ Lăng ở Trường Khánh tham học nơi Tuyết PhongHuyền Sa, qua lại 20 năm, ngồi rách bảy cái bồ đoàn mà chưa tỏ ngộ. Nhà thiền ghi lại chuyện này bằng câu “Trường Khánh bồ đoàn”, ý nói tính cách quyết tâm gian khổ. Đâu phải một lần ngồi mà xong việc, ngồi thiền là chuẩn bị nấu cho chín nhừ mớ vọng tưởng lăng xăng, ngày đêm gì cũng đối mặt với chính mình. Thiền sư ngồi trên bồ đoàn nhưng chỗ ngộ đôi lúc là đang đi đứng, hoặc trợt chân té bất ngờ, hoặc nghe một tiếng động… Ngài Huệ Lăng một hôm cuốn rèm đại ngộ. Bảy cái bồ đoàn đã qua có giúp chỗ này không? Bồ đoàn bây giờ dồn gòn, may vải tốt không dễ rách hư, nhưng đọc câu chuyện của Ngài cũng giúp người nung chí.

Bồ đoàn tọa nại giang đầu lãnh

Hương hỏa trùng sinh kiếp hậu khôi.

Bùi Giáng dịch thoát:

Bồ đoàn ngồi lại nguyện cầu

Luống từng chịu gió giang đầu giá băng

Trùng sinh kiếp hậu há rằng

Tro là hương hỏa, mộng hằng là than

Ngồi suông trên tấm bồ đoàn

Ngày xuôi giốc tuột

hai hàng thái hư.

Thiền tăng ngồi yên trên bồ đoàn để làm gì? Câu hỏi đó vẫn lẽo đẽo theo chúng ta trên từng bước tu học. Ngồi cũng là để hỏi han dòm ngó. Không ngồi thì không tỉnh thức nổi, tập khí lao xao mịt mờ như ma trận, hôn trầm buồn ngủ rình chộp. Thời gian vẫn trôi qua trên đầu, cuộc đời vẫn là buồn vui như thế, không ngồi vững vàng có nghĩa là không thể mỉm một nụ cười trước mọi sự.

Ở đây nói ngồi để chống chọi với gió rét đầu bến sông. Đôi khi ngồi trong phòng rất ấm nhưng gió rét vẫn từng trận thổi qua, đó là những cơn gió nội tâm, chỉ có người trong cuộc mới biết. Chung quanh vẫn tĩnh lặng. Ngồi đến khi nào thân tâm ngưng đọng được không? Các vị La-hán ngồi đến mức có thể tuyên bố “Ta sanh đã tận, phạm hạnh đã lập, không thọ thân sau”, khi đó những cuộc hẹn hò tái lai không còn rủ rê, không còn dính dáng, “Mộng trùng lai không có ở trên đời”.

bodoan-1.gif

Ngồi như vậy không đơn giản. Và những cơn gió không phải là gió thường, nó có thể thổi bay chúng ta qua tám muôn bốn nghìn dặm như gió của cây quạt Ba tiêu. Quạt một cái Tôn Hành Giả bay tít mù không cưỡng được. Cũng có thể là gió nghiệp thổi người qua những hành lang sinh tử. Chỉ có ngồi kiên trì lặng lẽ, thấy mình trôi chảy như mộng, ngày nọ tiếp nối ngày kia vẫn tọa cụ bồ đoàn, nhắm mắt hay mở mắt cũng khung trời đó, tự hỏi ta là cái gì? “Ngày xuôi giốc tuột hai hàng thái hư”, mọi thứ đi qua không dừng lại, để cho mưa nắng và thời gian rêu mốc mấy phen. Thơ Tô Đông Pha tặng Đạo Tiềm, một nhà sư và nhà thơ thâm giao với ông ở miền Giang Triết, có câu: “Bế môn tọa huyệt nhất thiền sáp / Đầu thượng tuế nguyệt không tranh vanh”. Ông lặn lội trong chốn quan trường, đôi lúc cũng muốn được như sư, đóng cửa ngồi thiền - nơi tọa thiền cũng là một chốn hang động ẩn cư của chính mình. Bỏ quên tuế nguyệt cũng là bỏ quên những kỷ niệm một thời, mơ ước tương lai. Tọa thiền cho thật chín chắn mới hiểu hết ý nghĩa của nó, mới cám ơn bồ đoàn tọa cụ đã giúp mình chiến đấu chống chọi với chính mình. Thiền sinh khi bước vào thiền đường, chắp tay vái chào chỗ ngồi, xá chào bồ đoàn, thầm nguyện sẽ tiếp tục ngồi bây giờ và mãi mãi, cho đến khi sóng gió đầu sông bến nước đổi thành tro than không còn tung tích. Ngồi thiềntự hứa sẽ đi vào biển đại nguyện, lúc đó bồ đoàn tọa cụ trở thành chiếc thuyền thân thiết chở người qua sông, như bây giờ chở hành giả ngồi qua những đoạn đường gay cấn.

NHƯ ĐỨC

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2760)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2539)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2235)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2664)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2536)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2367)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2678)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2447)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3260)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2331)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2418)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2553)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2472)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2554)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2221)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2586)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3056)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2653)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2722)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3011)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2573)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2614)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4117)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2782)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3074)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3322)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2294)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2523)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2807)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3014)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2877)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2622)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2638)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3194)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2598)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2279)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2394)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2490)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2605)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2694)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2757)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3276)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2563)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2604)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2058)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2832)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2923)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2956)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2727)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant