Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trăng trên đồi Mandalay

22 Tháng Hai 201100:00(Xem: 17228)
Trăng trên đồi Mandalay

Nắng chiều vừa sụp tắt lúc tôi đặt chân đến chân đồi Mandalay huyễn hoặc. Trăng mùng 8 lên cao trên bầu trời trong vắt. Những bậc thềm có mái che, từ dưới nhìn lên dốc ngược không biết sẽ chấm dứt chỗ nào vì chút ánh sáng vàng lu lu đâu đó hắt ra không đủ soi sáng lối đi. Phía sau tôi ánh đèn đường ngoài cổng hắt ngược, dọi cái bóng gẫy gập lên mấy bậc thềm như một hình thù ma quái quờ quạng ngả nghiêng trèo lên đồi.

Tôi đã tới đồi Mandalay!

Phải, tôi đã đến đây sau nhiều năm tưởng tượng về ngọn đồi nằm ở miền trung Miến Điện. Ngọn đồi Đức Phật đã đặt chân đến. Ngọn đồi ghi dấu một khoảng thời cực thịnh của Phật giáo Miền Điện khi vua Mindon dời đô về Mandalay vào giữa thế kỷ 19. Trong các nỗ lực chấn hưng Phật giáo của ông, nổi bật nhất là công trình khắc toàn bộ kinh điển Phật giáo (Tam tạng kinh điển) lên các phiến đá quý trong một khoảng đất rộng dưới chân đồi, ông xây cất nhiều tu viện lớn, nhưng công việc chưa thập toàn viên mãn thì vua mất. Khi mất, ông không để lại lâu đài lăng tẩm đồ sộ, ngoại trừ toàn bộ kinh điển được khắc trên bia đá.

Một thời gian sau, khoảng đầu thế kỷ 20, bỗng có một nhà khổ hạnh xuất hiện trên đồi Mandalay, lúc đó đã hoang phế dưới sự đô hộ của người Anh, và thành sào huyệt của bọn cướp. Nhà khổ hạnh ngồi tham thiền trên đồi không biết bao nhiêu ngày tháng cho đến lúc người ta đồn đãi có bậc chân tu trên đồi hoang. Tín đồ tấp nập càng lúc càng đông, rồi từ hai bàn tay trắng, nhà khổ hạnh trên đồi Mandalay – nhờ bá tánh cúng dường – đã có thể tiếp tục công việc trùng tu và tuyền bá đạo Phật, tiếp tục công việc dang dở của vua Mindon thế kỷ trước.

Nhà khổ hạnh chính là vua Mindon tái sinh.

Bậc đế vương và nhà khổ hạnh giống như hai kiếp người với cuộc sống đối lập, nhưng trong mắt của nhà tu nhất tâm phụng sự, thì đế vương hay khổ hạnh đều là phương tiện để thực hiện một mục tiêu. Vua Mindon ‘chọn’ làm vua để có phương tiện truyền bá lời Phật. Thực vậy, ông không có uy quyền và không tham quyền uy, hầu như quyền cai trị nẳm trong tay hoàng thân quốc thích. Dường như ông muốn được để yên để chăm lo Đạo Phật. Quả là ông đã chọn làm vua để có phương tiện, khi thời thế hết, thực dân Anh xâm chiếm đất nước, thì ông lại chọn phương tiện làm nhà khổ hạnh. Và trong cả hai phương tiện ấy, vai trò nào ông làm cũng tốt.

Tôi biết được câu chuyện trên một phần nhờ dịch cuốn The Way of the White Clouds của đại sư Anagarika Govinda người Đức, trong đó có chương ‘Trưởng lão Đại Nhẫn, nhà Tiên tri trên Đồi Mandalay’, đây là chương tôi đọc nhiều lần đến gần như thuộc từng chi tiết về hành trạng của vua Mindon và nhà khổ hạnh Đại Nhẫn. Còn những mẫu chuyện khác về vua Mindon là nhờ hỏi thăm những người Miến Điện sống ở Mandalay.
Tôi vừa leo lên đồi vừa miên man hình ảnh nhà khổ hạnh lang thang đã ở nơi đây gần một thế kỷ trước. Chung quanh tôi bóng tối phủ dầy. Mái che trên những bậc thềm cao hun hút không cho ánh trăng dọi tới nên bóng tối như sậm hơn. Các bậc thềm được xây cách quãng để nghỉ mệt, hai bên đều có băng ghế đá dài bằng chiều dài của những bậc thềm. Đôi chân tưởng như rớt ra ngoài nhưng tôi cứ leo không nghỉ, mồ hôi ướt như dưới trời hè. Tôi đã chờ đợi cái ngày đặt chân lên ngọn đồi huyền thoại, và giờ đây đi như đi trong một giấc mộng dài tỉnh táo. Những ngôi nhà tối tàn ẩn dưới lùm cây hai bên thềm có những đôi mắt tò mò nhìn ra dưới ánh đèn vàng nhợt nhạt. Tiếng chim đâu đó rúc lên thi thoảng. Cứ leo vài chục bậc thang thì có một khu nhà nghỉ, hai bên đều có tôn trí tượng Phật, nhưng ánh đèn vàng từ mấy căn nhà men theo thềm cấp không đủ soi sáng tượng, chỉ thấy lờ mờ đường nét một vị đang ngồi xếp bành. Tôi vừa lạy trong bóng đêm vừa nghỉ mệt, hơi thở đứt quảng. Đi chừng vài chục bậc cấp nữa thì tới một khoảng nhà nghỉ rất rộng, ngay giữa gian có một bóng đèn vàng rọi lên tượng Phật Thích Ca đứng, pho tượng thật vĩ đại, đứng thẳng người cũng chỉ ngang khoảng đầu gối của pho tượng. Tôi phủ phục xuống vừa lạy vừa nghỉ mệt một lúc lâu. Khi đứng lên thì giựt mình thấy có một người đàn ông đừng bên cạnh, miệng cười hiền lành. Ông ta nói gì đó, khi thấy tôi không hiểu liền hỏi bằng tiếng Anh.

- Anh ở đâu đến?
Việt Nam.

Người đàn ông cười im lặng, cổ ông choàng tràng hạt, bận quần tây chứ không quấn xà rông như các đàn ông Miến Điện khác. Ông nói ở ngay căn nhà tre bên cạnh lâu rồi, rồi chỉ bức tượng nói gì đó mà tôi đoán là ông ta muốn giải thích đây là Phật gì. Tôi nói Thích Ca Mâu Ni? Ông gật gật đầu tủm tỉm, đến ngồi một bên chân tượng, chỉ tay ra dấu cho tôi hãy ngồi ngay trước tượng Phật, bên cạnh ông. Rồi ông bắt đầu tụng kinh lầm rầm. Tôi đọc một bài Tâm kinh ngắn mặc kệ ông đọc bằng tiếng Miến Điện. Cũng lạ, không hiểu ông đọc kinh gì mà hai thứ tiếng như hòa lẫn nhau trong tiếng lá cây xì xào quanh đồi. Tôi đứng lên rẻ qua hướng trái tính leo tiếp thì ông chợt lên tiếng: “Anh đi phía bên phải này mới tới đỉnh đồi, mất khoảng hăm lăm phút nữa.”burma-mandalay

Tôi đi tiếp khoảng dăm mươi bậc thì đến một nhà nghỉ chân ở một ngã ba có hai đường lên đồi, nhà nghỉ này cũng có tôn trí một tượng Phật nhỏ ngay ở giữa. Tôi rẻ trái, lúc này ánh sáng đã khá hơn, hai bên có vài ngôi nhà tre nhỏ bán nước và bánh trái, những người Miến ngồi yên lặng không mời mọc gì cả. Tôi cứ leo lên, leo lên nữa, mồ hôi ướt đẫm. Trong một cuốn sách hướng dẫn du lịch có chỉ nên thuê dân địa phương gánh lên đồi hoặc thuê xe chạy men theo sườn lòng vòng cũng lên tới, thì ra là vì cao như vậy. Tôi đi một chập nữa thì thấy đằng trước có một ngôi chùa khá lớn, ánh sáng vàng hắt ra dìu dịu. Trong chính điện, một pho tượng Thích Ca đứng thẳng thật vĩ đại, còn lớn hơn tượng vừa rồi, tay phái chỉ thẳng ra đằng trước, tay trái để xuôi theo mình nắm chéo vạt áo. Bên phải Phật là đệ tử Anan ngồi xếp nghiêng chân phải xuôi theo chân trái, chắp tay hướng về Phật nhưng đầu quay theo hướng bàn tay chỉ thẳng của Phật. Đôi mắt Anan thật sống động, trong vắt dù dưới ánh đèn vàng. Đây là chùa Shweyattaw do vua Mindo xây. Tương truyền Phật Thích Ca và ngài Anan đã tới chỗ này, khi đó Phật chỉ tay xuống khoảng đất dưới chân đồi và nói với Anan là hơn 2400 năm sau khi Phật nhập diệt sẽ có một cung điện xây ở đó. Vào năm 1857, vua Mindon dời đô về Mandalay, cho xây một hoàng thành vuông mỗi bề rộng chừng hai cây số ngay dưới chân đồi, vua cho tôn trí hai tôn tượng Thích Ca và Anan này để kỷ niệm bước chân Phật đã đến đây.

Tôi ngồi dưới chân tượng không biết bao lâu, lòng cảm xúc. Phật đã dừng chân nơi đây trong quảng đời hoằng pháp, lúc đó ở đây ra sao? Chắc chắn không có những bậc thềm, nhà nghỉ chân, xung quanh rừng rậm, thú dữ, một ngày nắng khô hay mưa bão, hay một buổi chiều vàng ngồi trên đồi ngắm mặt trời lặn xuống chân núi bên kia dòng sông Voi tha thiết miên man xuôi về Nam. Hai thầy trò ăn gì, mà hẵn hai thầy trò không đến đây vào vào tháng Sáu ta như bây giờ vì là mùa an cư.

Tôi nghĩ ngợi miên man lẩm cẩm như thế nhưng tai vẫn nghe tiếng lá cây bên ngoài xì xào thật mạnh, những chiếc lá không phải cọ mà đập lên nhau, gió nổi lên cuồn cuộn. Khi đứng lên đi vòng ra ngoài thì thấy vài đứa trẻ tò mò theo sau. Trăng đã lên cao. Thật may, cách đây vài tiếng khi từ phi trường về thành phố, trời đầy mây tưởng như sắp mưa. Bây giờ mây đi đâu hết, chỉ có một mảnh trăng khuyết treo trên đỉnh những ngọn tháp. Nhìn xuống, hoàng thành Mandalay lờ mờ trong ánh đèn vàng buồn bã. Bên ngoài hoàng thành là thành phố Mandalay cũng chỉ hắt hiu các ánh đèn trắng rải rác chứ không rực sáng như nhiều thành phố khác. Gió rít lên từng hồi, không thấy lá nhưng tiếng lá đụng vào nhau nghe như tiếng sóng biển dạt dào giữa đêm khuya. Một vài tiếng chim ‘quác’ lên. Tôi lại leo tiếp, sức lực như đã khôi phục hoàn toàn nhưng chỉ hăng hái vài chục bậc cấp thì tưởng như đi không nổi. Lần này các bậc thềm như dốc hơn, lối đi hai ba ngả túa ra nhưng cứ theo mái che mà tiến, hình như bên ngoài có nhiều chỗ sân rộng, có tiếng người thì thầm đâu đó. Tôi đi qua hai ba khu nhà nghỉ, chỗ nào cũng có tháp hoặc các pho tượng mô tả sinh-lão-bệnh-tử thật ghê sợ, người bệnh gầy xương, người già thì gánh thời gian đè lên tay chống gậy, người mẹ sinh con khó nhọc, người chết mặt ủng da chì quạ bu trên xác, và riêng người chết thì trên đầu nằm mới có tượng một nhà sư. Dường như người chết có vẻ gì hối hận vì tu quá trễ, khi còn trai trẻ, khi còn minh mẫn, mắt sáng tai nghe lại lo toan những điều gì đấy để cuối cùng xác thân tan rữa làm mồi cho bầy quạ đen kinh khủng. Tôi leo miệt mài như thế trong tiếng là xạc xào, ánh trăng dìu dịu dọi trên những bóng tháp trầm ngâm, rọi nghiêng chân đồi ảo ảo, cho đến khi tưởng sắp ngất đi thì đằng trước, trên cao chót vót, một màu sáng trắng chói lòa soi sáng một cung điện với những hàng cột vuông lấp lánh màu xanh ngọc bích hiện ra.

Tôi đã tới đỉnh đồi! Trên một khoảng đất bằng phẳng rộng rãi, những hàng cột vuông xanh ngọc chống đỡ các lớp mái che hình vòm nối nhau trên một điện Phật vuông vắn, ở bốn mặt đều tôn trí tượng Phật ngồi, tay phải để ngang đùi, bàn tay trái đụng mặt đất chứng minh sự thành đạo, ánh đèn màu lấp lánh linh động soi đôi mắt Phật buồn buồn (mấy hôm sau đi các chùa khác tôi đều thấy đôi mắt và cả khuôn mặt của Phật Miến Điện buồn, không mỉm cười ‘niêm hoa vi tiếu’ như các tôn tượng trong các thiền việnViệt Nam). Xung quanh tháp thờ vuông vức là bốn dãy hành lang rộng, mở toang bầu trời bát ngát và nhìn xuống cả một cổ thành Mandalay bằng phẳng. Trên bờ tường người ta dựng những cột tháp cao cách quảng gắn nhiều chuông nhỏ, gió thổi qua và không gian tịch mịch vui lên với tiếng chuông leng keng thanh thoát. Đứng ở mép tường nhìn lên, vầng trăng khuyết thật gần, phả ánh sáng mờ dịu lên những đỉnh tháp vàng tươi, những đỉnh tháp đen đen lầm lầm, và xa dưới kia, cổ thành chìm trong một màu sáng lung linh mờ ảo.

Tôi ngồi thật lâu trước các tượng Phật Thích Ca, thỉnh thoảng có vài người vào lễ thật kính cẩn. Không thấy một tu sĩ bận áo tu nào nhưng không gian như tràn ngập lời Phật trong tiếng chuông dạt dào, như hiện những dấu chân Phật một thời trên đất lành thánh thiện.

Tôi đã tới đỉnh đồi Mandalay! Dù nơi đây giờ đã thành một địa chỉ du lịch, đã có hàng quán lảng vảng ăn theo, đã mất nhiều không khí thiền vị của Phật môn, đã mất cái hương vị của im lặng khủng khiếp với những chiếc áo cà sa lặng lẽ vô ngôn, nhưng hề gì, vì mỗi dấu đất tôi đang đi trên đều có chân Phật đi qua, mỗi cơn gió thổi qua nơi đây cũng là ngọn gió đã thổi bay bay màu áo hoại sắc của Phật, mỗi âm thanh của lá cũng là tiếng lời của lá hơn hai ngàn năm trước. Sự thiêng liêng có hay không tùy nơi mình quán nghĩ. Cho nên mỗi lần dập đầu xuống kính lễ tôn tượng, tôi hình dung Đức Phật và ngài Anan mỉm cười (không chừng hai ngài đang chề giễu một con người sao còn lăn lộn trong luân hồi mê mãi), và bỗng thấy nghe như từ lòng đất một chấn động rền rền uy dũng của vô số Bồ tát Tùng Địa dũng xuất. Sự vĩ đại của Phật là dù biết rằng tất cả sẽ tan rã, giáo Pháp sẽ tới hồi không được tôn trọng, nhưng không vì thế mà ngưng giáo hóa, theo một cách hiểu thông thường thì thà làm một điều gì còn hơn không làm gì cả. Chính sự mất niềm tin của con người vào giáo Pháp đã kéo theo kiếp người tàn tạ, sự mai một của tình yêu, sự biến tướng của ngọn đồi thiêng, tất cả chứng minh sự không có của tất cả.

Tôi đi lần xuống đồi, không biết may hay rủi mà đúng lúc ấy mây đen che kín trăng non, lần mò những khúc nhiều lối đi ngang dọc nên lạc lên lạc xuống. Trời đã khuya. Khi tới ngang chỗ tượng Phật đứng đầu tiên, vẫn còn thấy người đàn ông ngồi tụng kinh thì thầm. Ánh sáng từ tượng Phật màu vàng hắt lên cả con người nhỏ bé của ông một vẻ thâm trầm, cô độc. Không có tiếng chuông và mõ, chỉ có tiềng gió và tiếng tụng kinh thầm thì. Tôi kính cẩn vái chào phía sau lưng ông như cái bắt tay với một người đồng hành quen thuộc.

(trích bút ký ‘Mười Hai Ngày Ở Miến Điện’ của Từ Khanh, nxb Trẻ, 2009).


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10661)
Theo luật nhân quả, tất cả mọi sự, mọi vật, không chừa một việc gì, đều xảy ra từ một hay nhiều nguyên nhân nào đó. Như người trồng cam thì sẽ được cam.
(Xem: 10579)
Ông là một “người lính già” đặc biệt, một “người lính già” bất tử, vì ông cũng đồng thời là một thiền sư, vì ông đã ngộ đạo với Thượng sĩ Huệ Trung trước đó.
(Xem: 11798)
Những ngày trời nắng, khi những giếng khác quanh đó đã cạn, giếng nước xóm tôi cũng chỉ hơi vơi đi một chút, rồi những cơn mưa bất chợt lại làm đầy lên.
(Xem: 12351)
Không biết tự bao giờ những câu nói dân dã quen thuộc của ba, của mẹ, của bà con hàng xóm vất vả tảo tần với cây lúa của khoai đã in sâu trong suy nghĩtâm thức của tôi
(Xem: 11858)
Việc Sầm Hoa dịch từ “tự viện” thành “chùa”, và lược dịch “Ấn Độ giáo cao cấp tăng lữ” thành “cao tăng” tức là đã có chủ ý nhắm đến đạo Phật, muốn bôi nhọ chư Tăng.
(Xem: 10798)
Những khám phá độc đáo và những lời dạy về sự giác ngộ đã trở nên gần gũi hơn qua việc thực hành tôn giáo, với khái niệm lúc ban đầu về Phật giáo đang tiến triển dần...
(Xem: 11285)
Con đường mà mỗi người phải trải qua quả thật đầy rẫy những chướng ngại, hoang mang và lầm lẫn. Vì thế phải cần có một vị thầy đích thật...
(Xem: 12344)
Trí Hải đã vượt suối trèo non tìm lên chùa Từ Vân trên núi Ngọc Trảng, phía Tây núi Kim Phụng, đến gặp thiền sư Trúc Lâm...
(Xem: 10379)
Diễm phúc sao trong phút cuối trong một đời kẻ vô nghì như tôi với quá nhiều tội lỗi lại được Hoà Thượng trụ trì ngồi niệm hồng danh Phật tiếp dẫn.
(Xem: 11551)
Hạnh phúc của con người không đến từ sự thù hận, tức giận cho nên sự trang trải tình thương trong cuộc sống xã hội là điều cần thiết nhất để hóa giải sự xung đột.
(Xem: 10933)
Xin nhớ rằng: chính nhờ những trải nghiệm khổ đau chúng ta mới đánh giá đúng đắn và hiểu thấu giá trị đích thực của hạnh phúcan lạc...
(Xem: 10700)
Thường hay tự nhủ rằng: Mình không có được cái diễm phúc sanh nhằm thời có Phật, nhưng được nghe Pháp Phật; được gặp người bạn đồng tu và được làm thân người.
(Xem: 10141)
Thiện tâm không chấp nhận máu đổ để chiến thắng nên ăn chay, không giết hại muôn loài là giải nghiệp sát sanh.
(Xem: 11503)
Những năm trước, hai gốc tùng trước sân như hai đứa trẻ, dáng điệu miệt mài trong cơn gió hiu hắt của mùa thu. Quanh năm suốt tháng, không một lời qua lại...
(Xem: 10270)
Đức Phật không phải là quan tòa để phán xử và tự cho mình có quyền phép để đưa người này vào Thiên Đàng hay đẩy người kia xuống Hỏa Ngục.
(Xem: 11181)
Tôi hát cho mẹ bài Năm Uẩn Chẳng Là Ta phổ nhạc từ Bát Nhã Tâm Kinh. Mắt mẹ vẫn nhắm chặt, hơi thở lên xuống đều đặn.
(Xem: 12746)
Cuộc tu là một chiến trận, binh lực phải được vận dụng để đối phó với những gì thật sự là đối phương, chẳng để nhằm vào những khóm lau bụi cỏ để hái hoa bắt bướm.
(Xem: 11093)
Ðối với đạo Phật, cái chính là tinh thần từ bi bình đẳng. Từ bi bình đẳng là một trong những đặc điểm nổi bật và quan trọng nhất trong Phật Giáo.
(Xem: 12026)
Sự khác biệt của mọi vật là do nghiệp riêng của chúng, chứ bản chất chúng vẫn là Chân Như. Như sóng sanh khởi từ đại dương, biến thành một làn sóng di động...
(Xem: 12040)
Một chậu quỳnh hoa có nhiều nụ là tin tức được mọi người đón chờ. Chậu hoa được đặt gần bên chánh điện, món quà sang nhất của thiền viện...
(Xem: 10521)
Tháng 8, đất trời hân hoan chào đón những đợt nắng mới, nô nức và nồng nhiệt như cảnh đồng loại đang nô đùa ngoài bể xa.
(Xem: 10959)
Khi đời sống nội tâm của bạn được lành mạnh, sung túc thì cuộc sống bên ngoài cũng sẽ ảnh hưởng theo và ngày càng trở nên phong phú.
(Xem: 10584)
Thực ra, tên gọi và hình thức món chay sẽ không là gì nếu ta không quá xem trọng nó. Mọi vật sẽ trở nên bình thường như những món quà hương vị của cuộc sống...
(Xem: 13570)
Thật vậy, luôn có một sự tương quan chặt chẽ giữa lòng vị thahạnh phúc. Nhiều công trình nghiên cứu còn cho thấy là hành động cho mang lại nhiều xúc động tốt đẹp hơn...
(Xem: 11268)
Thủy vừa nói vừa đưa mắt nhìn ra xa. Đôi mắt đen láy đượm buồn. Trong nhà Thủy là người giống mẹ hơn cả, đặc biệt là đôi mắt.
(Xem: 10605)
Vậy, Tiểu Sư Phụ đi đâu? Cô bé hỏi. Nhìn đôi mắt thủy sắc, tôi trả lời - trả lời với chính mình, đi đâu à? Tôi cũng hỏi câu này nhiều lắm rồi.
(Xem: 10472)
Ca ngợi con ngườihoa sen không chỉ là tôn vinh sự chiến thắng vinh quang sau cùng của chúng, mà còn là ca ngợi sự kiên nhẫn, chịu đựng, gian khổ khó khăn...
(Xem: 12745)
Không ai có thể biết trước những gì sẽ xảy ra vào ngày mai... Thế nhưng ta vẫn có một niềm tin... Vậy thì hãy hành xử một cách tốt đẹp nhất và không hối tiếc gì cả.
(Xem: 11699)
Tôi tự nghĩ hóa ra khủng hoảng kinh tế cũng là những gì liên hệ đến xúc cảm. Tôi nghĩ rằng người ta dung túng quá đáng các thứ xúc cảm tàn phá, chẳng hạn như sự tham lam...
(Xem: 15108)
Tôi cảm thấy rằng những hệ thống không thực tế do con người tạo ra cuối cùng sẽ trở lại trong cung cách nhân bản tự nhiên. Chúng tôi yêu mến tự do.
(Xem: 16353)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 11865)
Ta hiện hữuhiện hữu với cha mẹ, với thầy, với bạn. Ta hiện hữuhiện hữu với con người, với muôn loài và với thiên nhiên. Không có cha mẹ thì sẽ không bao giờ có ta.
(Xem: 11690)
Không biết tự bao giờ, hình ảnh cái hàng rào quê bình dị, thân thương gắn liền với tuổi thơ nhọc nhằn nhưng cũng nhiều niềm vui đã in sâu trong tâm thức của tôi.
(Xem: 14082)
Như một vị Đạt Lai Lạt Ma đầu tiên du hành sang phương Tây, ngài cũng đã ca tụng những đạo đức bất bạo động đến hàng triệu người...
(Xem: 12232)
Con thuyền sau những tháng năm đưa khách qua sông, rồi đỗ mục ở bến sông đời lặng lẽ… Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 13764)
Điều cần thiết, trước nhất, là xóa tan cội rễ của những cảm xúc tiêu cực, của phiền não, tiêu trừ chính nguồn gốc của sân hậnthù oán.
(Xem: 12179)
Nắng đã biến thành là thứ tâm linh vô giá, che chở cho đời, cho con người, như bàn tay của Bồ tát Quán Thế Âm, đem niềm vui hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 11630)
phải chăng sau cánh cửa hẹp là phương trời phóng khoáng, sau ưu phiềnan lạc thảnh thơi, sau bất hạnhhạnh phúc ngọt ngào…
(Xem: 13239)
Theo sự nghiên cứu, chúng tôi không hề thấy có việc đốt vàng mã cúng tế người chết được ghi trong tam tạng kinh điển của nhà Phật.
(Xem: 14353)
Tôi nghĩ con người phải mang theo tâm linh của họ - - và sự đấu tranh của họ. Và tôi nghĩ có thể là một phương pháp bất bạo động.
(Xem: 11877)
Chư Tăng sống có mục đích công ích thì quần chúng sẽ không xa rời đạo Phật; chư Tăngquần chúng đều hướng vào tâm linhcông ích xã hội...
(Xem: 12568)
Giáo lý của Đức Phật bao gồm hai mặt của một thực tại, đệ Nhất nghĩa đế thuộc bình diện siêu việtđệ nhị nghĩa đế thuộc về thế giới hiện tượng.
(Xem: 12192)
Chức năng chính của chùa chiền tự viện là hoằng duơng Phật pháp, thực tập lời Phật dạy và tổ chức các hoạt động có tính giáo dục chứ không chỉ là du lịch mà thôi.
(Xem: 12077)
Để có cái nhìn sâu sắc và thấu triệt được mọi vấn đề của cuộc sống, bạn chỉ cần lặng lẽ quan sát thân tâm mình và hoàn cảnh đương tại một cách rõ ràng, khách quan...
(Xem: 11665)
Trong một kiếp người ta có vật chất ta cũng không thể mang theo lúc chết, không có gì là của mình ngoài nghiệp, điều lành, phước báu mình đã tạo.
(Xem: 11502)
Ngày mới vào lớp một, ngày đó lớp một nhỏ nhất, không có mầm chồi lá như bây giờ, tôi đã có một người bạn. Khá thân. Hắn thương tôi lạ.
(Xem: 11518)
Ở khía cạnh tu học thì những người bạn đạo hoặc huynh đệ đồng tu chính là người thầy của mình, bởi sự tu tập và những kiến giải của họ...
(Xem: 11409)
Đây là cuộc lễ kéo dài nhiều ngày nhất và quan trọng nhất, vì, ngoài lễ cầu hòa bình, còn kèm chúc mừng sinh nhật và truyền quán đỉnh đặc biệt.
(Xem: 13324)
Tôi xem thật là quan trọng để có một đời sống hạnh phúc. Cội nguồn chính của hạnh phúc là trong chính chúng ta.
(Xem: 11693)
Cho đến nay tư tưởng Phật Giáo đã thấm nhuần trong tâm hồn Dân Tộc Việt Nam thành một khối keo sơn khó phai mờ và lay chuyển...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant