Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trăng trên đồi Mandalay

22 Tháng Hai 201100:00(Xem: 17224)
Trăng trên đồi Mandalay

Nắng chiều vừa sụp tắt lúc tôi đặt chân đến chân đồi Mandalay huyễn hoặc. Trăng mùng 8 lên cao trên bầu trời trong vắt. Những bậc thềm có mái che, từ dưới nhìn lên dốc ngược không biết sẽ chấm dứt chỗ nào vì chút ánh sáng vàng lu lu đâu đó hắt ra không đủ soi sáng lối đi. Phía sau tôi ánh đèn đường ngoài cổng hắt ngược, dọi cái bóng gẫy gập lên mấy bậc thềm như một hình thù ma quái quờ quạng ngả nghiêng trèo lên đồi.

Tôi đã tới đồi Mandalay!

Phải, tôi đã đến đây sau nhiều năm tưởng tượng về ngọn đồi nằm ở miền trung Miến Điện. Ngọn đồi Đức Phật đã đặt chân đến. Ngọn đồi ghi dấu một khoảng thời cực thịnh của Phật giáo Miền Điện khi vua Mindon dời đô về Mandalay vào giữa thế kỷ 19. Trong các nỗ lực chấn hưng Phật giáo của ông, nổi bật nhất là công trình khắc toàn bộ kinh điển Phật giáo (Tam tạng kinh điển) lên các phiến đá quý trong một khoảng đất rộng dưới chân đồi, ông xây cất nhiều tu viện lớn, nhưng công việc chưa thập toàn viên mãn thì vua mất. Khi mất, ông không để lại lâu đài lăng tẩm đồ sộ, ngoại trừ toàn bộ kinh điển được khắc trên bia đá.

Một thời gian sau, khoảng đầu thế kỷ 20, bỗng có một nhà khổ hạnh xuất hiện trên đồi Mandalay, lúc đó đã hoang phế dưới sự đô hộ của người Anh, và thành sào huyệt của bọn cướp. Nhà khổ hạnh ngồi tham thiền trên đồi không biết bao nhiêu ngày tháng cho đến lúc người ta đồn đãi có bậc chân tu trên đồi hoang. Tín đồ tấp nập càng lúc càng đông, rồi từ hai bàn tay trắng, nhà khổ hạnh trên đồi Mandalay – nhờ bá tánh cúng dường – đã có thể tiếp tục công việc trùng tu và tuyền bá đạo Phật, tiếp tục công việc dang dở của vua Mindon thế kỷ trước.

Nhà khổ hạnh chính là vua Mindon tái sinh.

Bậc đế vương và nhà khổ hạnh giống như hai kiếp người với cuộc sống đối lập, nhưng trong mắt của nhà tu nhất tâm phụng sự, thì đế vương hay khổ hạnh đều là phương tiện để thực hiện một mục tiêu. Vua Mindon ‘chọn’ làm vua để có phương tiện truyền bá lời Phật. Thực vậy, ông không có uy quyền và không tham quyền uy, hầu như quyền cai trị nẳm trong tay hoàng thân quốc thích. Dường như ông muốn được để yên để chăm lo Đạo Phật. Quả là ông đã chọn làm vua để có phương tiện, khi thời thế hết, thực dân Anh xâm chiếm đất nước, thì ông lại chọn phương tiện làm nhà khổ hạnh. Và trong cả hai phương tiện ấy, vai trò nào ông làm cũng tốt.

Tôi biết được câu chuyện trên một phần nhờ dịch cuốn The Way of the White Clouds của đại sư Anagarika Govinda người Đức, trong đó có chương ‘Trưởng lão Đại Nhẫn, nhà Tiên tri trên Đồi Mandalay’, đây là chương tôi đọc nhiều lần đến gần như thuộc từng chi tiết về hành trạng của vua Mindon và nhà khổ hạnh Đại Nhẫn. Còn những mẫu chuyện khác về vua Mindon là nhờ hỏi thăm những người Miến Điện sống ở Mandalay.
Tôi vừa leo lên đồi vừa miên man hình ảnh nhà khổ hạnh lang thang đã ở nơi đây gần một thế kỷ trước. Chung quanh tôi bóng tối phủ dầy. Mái che trên những bậc thềm cao hun hút không cho ánh trăng dọi tới nên bóng tối như sậm hơn. Các bậc thềm được xây cách quãng để nghỉ mệt, hai bên đều có băng ghế đá dài bằng chiều dài của những bậc thềm. Đôi chân tưởng như rớt ra ngoài nhưng tôi cứ leo không nghỉ, mồ hôi ướt như dưới trời hè. Tôi đã chờ đợi cái ngày đặt chân lên ngọn đồi huyền thoại, và giờ đây đi như đi trong một giấc mộng dài tỉnh táo. Những ngôi nhà tối tàn ẩn dưới lùm cây hai bên thềm có những đôi mắt tò mò nhìn ra dưới ánh đèn vàng nhợt nhạt. Tiếng chim đâu đó rúc lên thi thoảng. Cứ leo vài chục bậc thang thì có một khu nhà nghỉ, hai bên đều có tôn trí tượng Phật, nhưng ánh đèn vàng từ mấy căn nhà men theo thềm cấp không đủ soi sáng tượng, chỉ thấy lờ mờ đường nét một vị đang ngồi xếp bành. Tôi vừa lạy trong bóng đêm vừa nghỉ mệt, hơi thở đứt quảng. Đi chừng vài chục bậc cấp nữa thì tới một khoảng nhà nghỉ rất rộng, ngay giữa gian có một bóng đèn vàng rọi lên tượng Phật Thích Ca đứng, pho tượng thật vĩ đại, đứng thẳng người cũng chỉ ngang khoảng đầu gối của pho tượng. Tôi phủ phục xuống vừa lạy vừa nghỉ mệt một lúc lâu. Khi đứng lên thì giựt mình thấy có một người đàn ông đừng bên cạnh, miệng cười hiền lành. Ông ta nói gì đó, khi thấy tôi không hiểu liền hỏi bằng tiếng Anh.

- Anh ở đâu đến?
Việt Nam.

Người đàn ông cười im lặng, cổ ông choàng tràng hạt, bận quần tây chứ không quấn xà rông như các đàn ông Miến Điện khác. Ông nói ở ngay căn nhà tre bên cạnh lâu rồi, rồi chỉ bức tượng nói gì đó mà tôi đoán là ông ta muốn giải thích đây là Phật gì. Tôi nói Thích Ca Mâu Ni? Ông gật gật đầu tủm tỉm, đến ngồi một bên chân tượng, chỉ tay ra dấu cho tôi hãy ngồi ngay trước tượng Phật, bên cạnh ông. Rồi ông bắt đầu tụng kinh lầm rầm. Tôi đọc một bài Tâm kinh ngắn mặc kệ ông đọc bằng tiếng Miến Điện. Cũng lạ, không hiểu ông đọc kinh gì mà hai thứ tiếng như hòa lẫn nhau trong tiếng lá cây xì xào quanh đồi. Tôi đứng lên rẻ qua hướng trái tính leo tiếp thì ông chợt lên tiếng: “Anh đi phía bên phải này mới tới đỉnh đồi, mất khoảng hăm lăm phút nữa.”burma-mandalay

Tôi đi tiếp khoảng dăm mươi bậc thì đến một nhà nghỉ chân ở một ngã ba có hai đường lên đồi, nhà nghỉ này cũng có tôn trí một tượng Phật nhỏ ngay ở giữa. Tôi rẻ trái, lúc này ánh sáng đã khá hơn, hai bên có vài ngôi nhà tre nhỏ bán nước và bánh trái, những người Miến ngồi yên lặng không mời mọc gì cả. Tôi cứ leo lên, leo lên nữa, mồ hôi ướt đẫm. Trong một cuốn sách hướng dẫn du lịch có chỉ nên thuê dân địa phương gánh lên đồi hoặc thuê xe chạy men theo sườn lòng vòng cũng lên tới, thì ra là vì cao như vậy. Tôi đi một chập nữa thì thấy đằng trước có một ngôi chùa khá lớn, ánh sáng vàng hắt ra dìu dịu. Trong chính điện, một pho tượng Thích Ca đứng thẳng thật vĩ đại, còn lớn hơn tượng vừa rồi, tay phái chỉ thẳng ra đằng trước, tay trái để xuôi theo mình nắm chéo vạt áo. Bên phải Phật là đệ tử Anan ngồi xếp nghiêng chân phải xuôi theo chân trái, chắp tay hướng về Phật nhưng đầu quay theo hướng bàn tay chỉ thẳng của Phật. Đôi mắt Anan thật sống động, trong vắt dù dưới ánh đèn vàng. Đây là chùa Shweyattaw do vua Mindo xây. Tương truyền Phật Thích Ca và ngài Anan đã tới chỗ này, khi đó Phật chỉ tay xuống khoảng đất dưới chân đồi và nói với Anan là hơn 2400 năm sau khi Phật nhập diệt sẽ có một cung điện xây ở đó. Vào năm 1857, vua Mindon dời đô về Mandalay, cho xây một hoàng thành vuông mỗi bề rộng chừng hai cây số ngay dưới chân đồi, vua cho tôn trí hai tôn tượng Thích Ca và Anan này để kỷ niệm bước chân Phật đã đến đây.

Tôi ngồi dưới chân tượng không biết bao lâu, lòng cảm xúc. Phật đã dừng chân nơi đây trong quảng đời hoằng pháp, lúc đó ở đây ra sao? Chắc chắn không có những bậc thềm, nhà nghỉ chân, xung quanh rừng rậm, thú dữ, một ngày nắng khô hay mưa bão, hay một buổi chiều vàng ngồi trên đồi ngắm mặt trời lặn xuống chân núi bên kia dòng sông Voi tha thiết miên man xuôi về Nam. Hai thầy trò ăn gì, mà hẵn hai thầy trò không đến đây vào vào tháng Sáu ta như bây giờ vì là mùa an cư.

Tôi nghĩ ngợi miên man lẩm cẩm như thế nhưng tai vẫn nghe tiếng lá cây bên ngoài xì xào thật mạnh, những chiếc lá không phải cọ mà đập lên nhau, gió nổi lên cuồn cuộn. Khi đứng lên đi vòng ra ngoài thì thấy vài đứa trẻ tò mò theo sau. Trăng đã lên cao. Thật may, cách đây vài tiếng khi từ phi trường về thành phố, trời đầy mây tưởng như sắp mưa. Bây giờ mây đi đâu hết, chỉ có một mảnh trăng khuyết treo trên đỉnh những ngọn tháp. Nhìn xuống, hoàng thành Mandalay lờ mờ trong ánh đèn vàng buồn bã. Bên ngoài hoàng thành là thành phố Mandalay cũng chỉ hắt hiu các ánh đèn trắng rải rác chứ không rực sáng như nhiều thành phố khác. Gió rít lên từng hồi, không thấy lá nhưng tiếng lá đụng vào nhau nghe như tiếng sóng biển dạt dào giữa đêm khuya. Một vài tiếng chim ‘quác’ lên. Tôi lại leo tiếp, sức lực như đã khôi phục hoàn toàn nhưng chỉ hăng hái vài chục bậc cấp thì tưởng như đi không nổi. Lần này các bậc thềm như dốc hơn, lối đi hai ba ngả túa ra nhưng cứ theo mái che mà tiến, hình như bên ngoài có nhiều chỗ sân rộng, có tiếng người thì thầm đâu đó. Tôi đi qua hai ba khu nhà nghỉ, chỗ nào cũng có tháp hoặc các pho tượng mô tả sinh-lão-bệnh-tử thật ghê sợ, người bệnh gầy xương, người già thì gánh thời gian đè lên tay chống gậy, người mẹ sinh con khó nhọc, người chết mặt ủng da chì quạ bu trên xác, và riêng người chết thì trên đầu nằm mới có tượng một nhà sư. Dường như người chết có vẻ gì hối hận vì tu quá trễ, khi còn trai trẻ, khi còn minh mẫn, mắt sáng tai nghe lại lo toan những điều gì đấy để cuối cùng xác thân tan rữa làm mồi cho bầy quạ đen kinh khủng. Tôi leo miệt mài như thế trong tiếng là xạc xào, ánh trăng dìu dịu dọi trên những bóng tháp trầm ngâm, rọi nghiêng chân đồi ảo ảo, cho đến khi tưởng sắp ngất đi thì đằng trước, trên cao chót vót, một màu sáng trắng chói lòa soi sáng một cung điện với những hàng cột vuông lấp lánh màu xanh ngọc bích hiện ra.

Tôi đã tới đỉnh đồi! Trên một khoảng đất bằng phẳng rộng rãi, những hàng cột vuông xanh ngọc chống đỡ các lớp mái che hình vòm nối nhau trên một điện Phật vuông vắn, ở bốn mặt đều tôn trí tượng Phật ngồi, tay phải để ngang đùi, bàn tay trái đụng mặt đất chứng minh sự thành đạo, ánh đèn màu lấp lánh linh động soi đôi mắt Phật buồn buồn (mấy hôm sau đi các chùa khác tôi đều thấy đôi mắt và cả khuôn mặt của Phật Miến Điện buồn, không mỉm cười ‘niêm hoa vi tiếu’ như các tôn tượng trong các thiền việnViệt Nam). Xung quanh tháp thờ vuông vức là bốn dãy hành lang rộng, mở toang bầu trời bát ngát và nhìn xuống cả một cổ thành Mandalay bằng phẳng. Trên bờ tường người ta dựng những cột tháp cao cách quảng gắn nhiều chuông nhỏ, gió thổi qua và không gian tịch mịch vui lên với tiếng chuông leng keng thanh thoát. Đứng ở mép tường nhìn lên, vầng trăng khuyết thật gần, phả ánh sáng mờ dịu lên những đỉnh tháp vàng tươi, những đỉnh tháp đen đen lầm lầm, và xa dưới kia, cổ thành chìm trong một màu sáng lung linh mờ ảo.

Tôi ngồi thật lâu trước các tượng Phật Thích Ca, thỉnh thoảng có vài người vào lễ thật kính cẩn. Không thấy một tu sĩ bận áo tu nào nhưng không gian như tràn ngập lời Phật trong tiếng chuông dạt dào, như hiện những dấu chân Phật một thời trên đất lành thánh thiện.

Tôi đã tới đỉnh đồi Mandalay! Dù nơi đây giờ đã thành một địa chỉ du lịch, đã có hàng quán lảng vảng ăn theo, đã mất nhiều không khí thiền vị của Phật môn, đã mất cái hương vị của im lặng khủng khiếp với những chiếc áo cà sa lặng lẽ vô ngôn, nhưng hề gì, vì mỗi dấu đất tôi đang đi trên đều có chân Phật đi qua, mỗi cơn gió thổi qua nơi đây cũng là ngọn gió đã thổi bay bay màu áo hoại sắc của Phật, mỗi âm thanh của lá cũng là tiếng lời của lá hơn hai ngàn năm trước. Sự thiêng liêng có hay không tùy nơi mình quán nghĩ. Cho nên mỗi lần dập đầu xuống kính lễ tôn tượng, tôi hình dung Đức Phật và ngài Anan mỉm cười (không chừng hai ngài đang chề giễu một con người sao còn lăn lộn trong luân hồi mê mãi), và bỗng thấy nghe như từ lòng đất một chấn động rền rền uy dũng của vô số Bồ tát Tùng Địa dũng xuất. Sự vĩ đại của Phật là dù biết rằng tất cả sẽ tan rã, giáo Pháp sẽ tới hồi không được tôn trọng, nhưng không vì thế mà ngưng giáo hóa, theo một cách hiểu thông thường thì thà làm một điều gì còn hơn không làm gì cả. Chính sự mất niềm tin của con người vào giáo Pháp đã kéo theo kiếp người tàn tạ, sự mai một của tình yêu, sự biến tướng của ngọn đồi thiêng, tất cả chứng minh sự không có của tất cả.

Tôi đi lần xuống đồi, không biết may hay rủi mà đúng lúc ấy mây đen che kín trăng non, lần mò những khúc nhiều lối đi ngang dọc nên lạc lên lạc xuống. Trời đã khuya. Khi tới ngang chỗ tượng Phật đứng đầu tiên, vẫn còn thấy người đàn ông ngồi tụng kinh thì thầm. Ánh sáng từ tượng Phật màu vàng hắt lên cả con người nhỏ bé của ông một vẻ thâm trầm, cô độc. Không có tiếng chuông và mõ, chỉ có tiềng gió và tiếng tụng kinh thầm thì. Tôi kính cẩn vái chào phía sau lưng ông như cái bắt tay với một người đồng hành quen thuộc.

(trích bút ký ‘Mười Hai Ngày Ở Miến Điện’ của Từ Khanh, nxb Trẻ, 2009).


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13875)
Thằng bé nhìn con bướm chết lần cuối. Dưới ánh trăng đôi cánh nó lấp lánh như ánh vàng. ”Cậu đẹp thật đấy”, thằng bé nghĩ. Rồi một lát sau cậu thả con côn trùng rơi trên đất và chạy về phía mẹ.
(Xem: 12341)
Đây là một câu chuyện có thật, chúng tôi gọi là "Câu chuyện bát mì". Chuyện xảy ra cách đây năm mươi năm vào ngày 31/12, một ngày cuối năm tại quán mì Bắc Hải Đình, đường Trát Hoảng, Nhật Bản.
(Xem: 15403)
Cô con gái hay than thở với cha sao bất hạnh này cứ vừa đi qua thì bất hạnh khác đã vội ập đến với mình, và cô không biết phải sống thế nào.
(Xem: 13854)
Là một thành viên trong cộng đồng thế giới, tôi không thể nói rằng tôi không có trách nhiệm gì đối với những khổ đau, bất ưng, nghịch lý, bất công, hiểm nguy đang xảy ra chung quanh tôi.
(Xem: 13716)
Nỗi thất vọng lớn nhất của con người là chạy bươn về phía trước hay chạy ngược về phía sau để kiếm tìm cho mình một bản ngã. Bản ngã trong cơm áo, gạo tiền, trong kiến thức chữ nghĩa...
(Xem: 13215)
Ta làm và nói sai, nhưng ta lại được nhiều người khen ngợi mỗi ngày, như vậy mỗi ngày đi qua đời ta là mỗi ngày đưa đời sống của ta đi dần vào bóng đêm và từ bóng đêm này dẫn ta đi tới bóng đêm khác.
(Xem: 14084)
Có một phạm nhân trong thời gian cải tạo khi đang tu sửa lại đường đi, anh ta nhặt được 2 triệu đồng, anh ta không mảy may suy nghĩ liền mang số tiền này đến chỗ cảnh sát.
(Xem: 13749)
Con bé không chú ý đến câu hỏi của tôi, đang bận bịu thổi kẹo thành quả bong bóng nhỏ. Có lúc nó thổi không khéo, quả bóng vỡ gây một tiếng bụp nhẹ, để lại chất kẹo nằm vắt ngang đôi môi mọng đỏ.
(Xem: 13844)
Mùa đông năm ấy tuyết không rơi nhiều, nhưng cái lạnh vẫn theo sương khói ùa về làm xác xơ thêm cho khu rừng mới trải qua một mùa dông bão kéo dài trước đó.
(Xem: 14759)
Thuở xưa, có anh chàng đọc kinh nghe nói về Phật, thích lắm, quyết định đi tìm gặp Ngài bằng được. Anh chàng khăn gói quả mướp ra đi. Sau khi trải qua không biết cơ man nào là núi sông, thành phố, hầm hố gian nguy hiểm trở...
(Xem: 12817)
Khi nắng vội vã đổ về trên từng con đường, nhà cửa, phố phường, cây cối, sông ngòi và nắng cũng chan hoà, hong đầy tâm của người con Phật, bằng chất liệu tươi trẻ ấm áp.
(Xem: 13782)
Bà Chín hồi nào đến giờ vẫn vậy, vẫn quạnh quẽ sống mình ên trong cái chòi lá bên một ao sen trắng. Cả làng chỉ biết bà là người xứ khác trôi giạt đến, cách nay đã ba mươi năm.
(Xem: 14780)
Sau khi nói chuyện với cô bé tôi ra về. Wendy nói cô bé rất vui, và đúng là tôi thấy nhẹ nhõm hơn nhiều.
(Xem: 15052)
Từ ngàn xưa, Ấn Ðộ đã là thánh địa đối với người con Phật. Chính từ vùng đất lịch sử này mà những danh tăng Pháp Hiển, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh... đã trở thành bất tử...
(Xem: 15110)
Chú Tư nhai với trâu, nhai một hồi thấy đúng là mình đang nhai cỏ; chú vừa nhai cỏ vừa ngước mắt nhìn trời xa xăm...
(Xem: 18025)
Có đôi lúc giữa đêm tôi tự hỏi mình có già cỗi quá không? Và mình đã thu lượm được những gì trên con đường mình đã chọn?
(Xem: 16102)
Khi ra đời, một cây bút chì luôn thắc mắc không biết cuộc sống bên ngoài xưởng làm bút chì sẽ ra sao bởi thỉnh thoảng nó nghe những người thợ làm bút chì nói chuyện với nhau.
(Xem: 15901)
Thủy tiên nhỏ bé, xinh xắn với hương thơm cao sang, cánh hoa trắng muốt, mọc từng chùm trên củ như loại hành tây. Những chiếc lá mịn màng đang vươn mình ra ánh sáng.
(Xem: 17526)
Cứ ngỡ hoa được thả từ đâu đó trên không trung xuống rồi đậu lên hàng rào. Hoa không thành chùm lớn, cách nhau vừa tầm xa, như họa sĩ thiên nhiên...
(Xem: 16654)
Mỗi năm, vào ngày trăng tròn tháng tư, chúng ta cung kính, hân hoan đón nhận Đấng Giác Ngộ ra đời. Đó là Đức Phật lịch sử, Đức Phật đã mang hình người để đến với chúng ta.
(Xem: 15962)
Trong các chùa thuộc Bắc tông, thường treo bức tranh một hành giả dữ tướng, cao to, quắc thước, râu hùm, hàm én, mắt lóe kỳ quang, mình vận cà sa, vai quảy một chiếc dép...
(Xem: 13503)
Cơn nắng giao mùa đã bắt đầu rực sáng; những tàng lá non xanh đã trở nên đậm sắc hơn; những cây phượng hồng vẫn còn nở rực; đằng xa trong vườn nhà ai...
(Xem: 14284)
Một chàng trai bị lạc giữa sa mạc rộng lớn. Anh mệt lả và khát khô cổ, sẵn sàng đánh đổi bất cứ cái gì chỉ để lấy một ngụm nước mát.
(Xem: 12565)
Thuyết pháp độ sinh suốt 49 năm, bỗng một ngày nhìn lại, thấy mình chưa nói một lời. Bất thuyết thị Phật thuyết! Chung thân ngôn, vị thường ngôn!
(Xem: 13066)
Nhiều năm thăng trầm trong cuộc đời, phần lớn chúng ta đều ý thức rằng những hấp dẫn lực bên ngoài sớm muộn gì cũng sẽ vỡ tan, chỉ có một cõi lòng bình anhạnh phúc...
(Xem: 16719)
Một người thanh niên đang ngồi trên một tảng đá gần nhà vào một ngày nọ. Một nhóm những người thông tuệ từ ngôi làng của anh ta đi ngang qua...
(Xem: 28920)
Một con cá nhỏ bơi lội tung tăng, thả nổi và ngoi lên mặt nước ngắm bầu trời xanh. Một lượn sóng ùa tới, nó đùa giỡn ngụp lặn với sóng...
(Xem: 19476)
Có một vị nam cư sĩ mỗi ngày thường hái hoa tươi trong vườn nhà mình đem đến chùa chí thành dâng cúng Phật. Một hôm, khi đem hoa đến điện Phật...
(Xem: 15078)
Con tin có Phật trên đời Phật luôn hiện hữu không rời chúng sanh Nhìn vào sự việc chung quanh Thật là kỳ diệu phải nhanh tu hành
(Xem: 11476)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của đức Phật, dù là Tứ niệm xứ (Satipatthàna) và Thân hành niệm (Kàyagatàsati)...
(Xem: 13736)
Mỗi buổi sáng ngày Tết nguyên đán, có một vị khách viễn xứ về thăm quê nhà. Vị khách đã đến chùa Kim Liên (Nghi Tàm, Hà Nội) lễ Phật, vãn cảnh chùa.
(Xem: 13888)
Có một người trung niên sau khi xuất gia trở thành một vị cao tăng, trụ trì một tu viện cách rất xa gia đình. Rất nhiều người ngưỡng mộ danh đức của ngài...
(Xem: 12992)
Thuở xa xưa có một chàng trai con của một vị Bà la môn (giai cấp "tu sĩ" cao nhất ở Ấn Độ) sống dưới triều đại vua Pasenadi, thuộc vương quốc Kosala.
(Xem: 19954)
Hạnh phúc chân chính liên quan đến tình cảm và trí huệ nhiều hơn. Hạnh phúc lệ thuộc vào lạc thú vật chất không vững bền, nay có mai không.
(Xem: 14974)
Ba chú tiểu dáo dác nhìn bốn bề xao động trong cặp mắt nai ngơ ngác. Dọc theo lề đường, ánh đèn xanh đỏ lập lòe về đêm...
(Xem: 13388)
Bóng con bé chạy dài theo bóng nắng. Thoắt cái nó đã mất hút sau đám ô môi rậm rạp. Vị thầy chỉ đi theo một đoạn. Nhìn những dấu chân nhỏ nhắn...
(Xem: 13956)
Rõ ràng, ở đời không có cái gì là toàn thiện, hoàn mỹ tuyệt đối cả. Được cái này thì mất cái kia là đặc tính chung nhất của vạn sự vạn vật.
(Xem: 12046)
Một người phạm hạnh thì giống như một viên bảo ngọc, như một tấm pha lê sáng trong, dù có đem bùn đen bôi lên cũng không thể nào làm dơ uế được.
(Xem: 14543)
Khi gặp mình mua 1000 đồng, trong bụng bà ấy được vui một chút, đó cũng là cách mình làm phước. Mình đem vui lại cho người khác, mình cũng sẽ được vui lây...
(Xem: 27064)
Ngày nay, tình yêu đã được hằng kho, hằng kho sách vở, báo chí, phim ảnh ca tụng như là một thứ “linh thiêng, thần thánh”, một nguồn hạnh phúc, hoan lạc đẹp nhất của kiếp người.
(Xem: 14205)
Nắng mùa hè ấm áp, giúp cho vườn hoa ở Canada cảnh sắc rực rỡ. Một hồ sen điểm vài cánh hoa hiếm quí tươi nhuần thanh khiết, làm ấm lòng người thưởng ngoạn.
(Xem: 18792)
Tùy duyên trong cuộc sống là sống mà không câu nệchấp trước bất cứ một sự việc nào dù đó là thuận hay nghịch trong cuộc sống.
(Xem: 13863)
Trong thời gian yên tu, một hôm bỗng dưng chúng tôi cảm thông được nụ cười nhẹ nhàng hiện trên môi Đức Phật và nụ cười tạm biệt của các thiền sư...
(Xem: 15773)
Bạn sẽ làm gì khi cuộc sống trao cho bạn những phiền toái không thể ngờ? Khi những dự tính không theo ý muốn? Bạn có chấp nhận nó...
(Xem: 16485)
Có phải là chúng ta cảm thấy sung sướng hạnh phúc khi ngày nay dù trên đất Mỹ, con cái chúng ta sống gần gũi trong một tiểu bang...
(Xem: 13827)
Ngày nay những gì chúng ta cần là sự chuyển hóa một cách căn bản trong nhận thức của chúng ta về con người là gì. Chúng ta phải từ bỏ ách nặng...
(Xem: 13580)
Trời đã về khuya. Trăng lên cao sáng vằng vặc trên bầu trời đen thẳm. Triều lẳng lặng bước vào bên trong phòng vẽ chưa đóng cửa...
(Xem: 18377)
Hắn cúp máy rồi, tôi cứ nằm yên đó ngó lên bức tranh mực Tàu trên vách. Ở đó có con thuyền hờ hững trên sông, chẳng biết sắp vào bờ...
(Xem: 12938)
Tịnh thất nằm bên triền núi, quanh năm vắng lặng, ít người lui tới. Cái quang cảnh vắng vẻ heo hút tạo cảm giác rờn rợn khi tôi đặt chân đến.
(Xem: 12640)
Năm đầu tiên đặt chân đến Mỹ, Lễ Tạ Ơn hoàn toàn không có một chút ý nghĩa gì với tôi cả, tôi chỉ vui vì ngày hôm đó được nghỉ làm...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant