Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chính Trị Và Kinh Tế

29 Tháng Chín 201000:00(Xem: 13922)
Chính Trị Và Kinh Tế

CHÍNH TRỊ VÀ KINH TẾ
Nguyên tác: Đức Đạt Lai Lạt Ma - Chuyển ngữ: HT Thích Trí Chơn
Trích từ cuốn sách: Ethics for the New Millennium

Tất cả chúng ta đều mong ước sống trong một thế giới an lạchạnh phúc hơn. Nhưng nếu chúng ta muốn biến nó trở thành hiện thực, chúng ta phải bảo đảm rằng lòng từ bi là nền tảng của mọi hành động. Điều này lại đặc biệt đúng đối với các đường lối chủ trương về chính trị và kinh tế.

Chúng ta biết hơn nửa thế giới hiện nay đang thiếu thốn về các nhu cầu căn bản như thức ăn, nhà ở, thuốc men và giáo dục. Tôi tưởng nghĩ chúng ta nên đặt câu hỏi, phải chăng chúng ta đang theo đuổi một chiều hướng sáng suốt nhất đối với các vấn đề này?

Tôi tin rằng không. Nếu như năm mươi năm qua, chúng ta có thể hoàn toàn diệt trừ hết nạn nghèo đói thì sự phân chia không quân bình các tài sản hiện nay của chúng ta may ra còn có thể bào chữa. Nhưng trái lại, nếu tình trạng này cứ tiếp diễn, điều chắc chắn là người nghèo lại càng nghèo hơn. Chỉ riêng ý thức căn bản của chúng ta về sự công bằnghợp lý đã đề nghị rằng chúng ta không nên bằng lòng để cho sự việc trên tiếp tục xảy ra.

Dĩ nhiên, tôi không biết nhiều về kinh tế. Nhưng tôi thấy khó tránh để kết luận rằng tài sản của người giàu được bảo vệ qua sự bỏ mặc không quan tâm đến những kẻ nghèo khổ, đặc biệt do phương tiện của các món nợ quốc tế.

Nói lên điều này tôi không có ý bảo rằng các quốc gia nghèo kém mở mang khỏi cần phải chia xẻ trách nhiệm đối với các vấn đề khó khăn của họ. Cũng chẳng phải chúng ta nên qui trách tất cả mọi điều xấu xa về chính trị cũng như kinh tế cho các chính trị gia và nhân viên công quyền.

Tôi không phủ nhận ngay cả trong thế giới có nền dân chủ vững mạnh nhất cũng vẫn thường thấy xuất hiện các nhà chính trị đưa ra những lời hứa hẹn không thực tếồn ào phô trương về nhiều việc họ sẽ làm sau khi đắc cử. Nhưng các người ấy không phải từ trên trời rớt xuống.

Do vậy, nếu các nhà chính trị ở một quốc gia nào đó tham nhủng, chúng ta thường lên án rằng xã hội ấy thiếu đạo đức và những cá nhân tạo thành dân tộc đó sống không có luân lý. Trong các trường hợp này, thực sự không mấy công bằng khi chỉ có những cử tri chỉ trích các chính trị gia.

Mặt khác, khi người ta có những giá trị cao quý và khi họ thực hành giới luật đạo đức trong đời sống biết quan tâm giúp đỡ mọi người thì các công chức sinh ra từ xã hội đó đương nhiên cũng biết tôn trọng cùng thứ giá trị ấy. Cho nên, mỗi người chúng ta đều giữ vai trò trong việc xây dựng một xã hội đặt trên nền tảng của tình thương, dành ưu tiên cho sự quý trọnglo nghĩ đến người khác.

Trên phương diện áp dụng cho chính sách kinh tế, cùng ý tưởng đó cần được thực hiện trong sinh hoạt của mỗi người. Một ý thức về trách nhiệm toàn cầu rất quan trọng. Tuy nhiên, tôi phải nói rằng rất khó đề nghị những ý kiến thực tiễn cho sự áp dụng các giá trị tinh thần trong lãnh vực thương mại. Bởi lẽ sự cạnh tranh đóng vai trò chủ yếu. Vì lý do đó, liên hệ giữa thiện ý và lợi tức rất mỏng manh.

Nhưng tôi chẳng hiểu tại sao không thể tạo một sự cạnh tranh xây dựng. Yếu tố căn bản là động cơ của những người tham dự. Khi chủ ýlợi dụng hoặc tiêu diệt kẻ khác, hẳn nhiên hậu quả sẽ không thể nào tích cực. Nhưng khi sự cạnh tranh được hướng dẫn với một tinh thần nhân đạothiện chí thì kết quả, mặc dù gây nên sự khổ đau cho người thua lỗ, nhưng ít ra cũng không đến nỗi quá tàn hại.

Hơn nữa điều có thể phản đối là trong thực trạng thương mại, chúng ta không thể nào hy vọng các thương vụ đặt con người vượt lên trên lợi tức. Nhưng ở đây, chúng ta nên nhớ rằng những kẻ điều hành ngành kinh doanh và các thương vụ trên thế giới cũng vẫn là con người. Ngay các phần tử cứng rắn nhất, chắc hẳn đều phải nhận thấy rằng đi tìm lợi tức mà không nghĩ đến hậu quả tai hạisai lầm. Nếu điều ấy đúng thì buôn bán ma tuý cũng chẳng sai. 

Cho nên một lần nữa, điều cần thiết đòi hỏi ở đây là mỗi người chúng ta nên tự phát triển tâm từ bi của mình. Chúng ta càng gia tăng được điều đó thì công việc doanh thương càng phản ảnh được các giá trị đạo đức căn bản của con người.

Trái lại, nếu chúng ta không quan tâm đến các giá trị ấy thì thương mại chắc chắn cũng sẽ không chú ý tới chúng. Đây không phải là vấn đề lý tưởng. Lịch sử chứng minh cho thấy trong xã hội con người có nhiều phát triển tích cực diễn ra do kết quả của lòng từ bi. Chẳng hạn sự hủy diệt thương vụ buôn bán người nô lệ.

Nếu nhìn vào sự tiến hoá của xã hội loài người chúng ta thấy cần thiết phải có viễn ảnh nhằm mang lại các thay đổi tích cực. Lý tưởngđộng cơ thúc đẩy cho sự tiến bộ. Không biết điều này và chỉ bảo rằng chúng ta cần phải “thực tiễn” trong chính trị là một sai lầm nghiêm trọng.

Các vấn đề của chúng ta trong việc phân phối kinh tế thiếu quân bình đã tạo nên một thử thách lớn lao cho toàn thể gia đình nhân loại. Tuy nhiên, khi chúng ta bước vào thiên niên kỷ mới, tôi tin rằng có nhiều lý do để lạc quan. Trong những năm đầu và giữa thế kỷ 20, có một nhận thức tổng quát rằng quyền lực chính trị và kinh tế là hậu quả chứ không phải sự thật. Nhưng tôi nghĩ ý tưởng đó nay đã thay đổi. 

Ngay cả các quốc gia giàu có và hùng mạnh nhất đã nhận biết rằng không thế bỏ quên những giá trị căn bản về nhân sinh. Ý niệm về đạo đức dành cho bang giao quốc tế ngày càng được xây dựng vững chắc. Đó là chưa kể đến những điều đã được diễn tả biến thành các hành động ý nghĩa, ít ra là những danh từ như “sự hoà hợp”, “bất bạo động” và “sự cảm thông” đã trở thành các từ ngữ của nhiều chính trị gia ngày nay. Đó là một sự phát triển hữu ích. 

Theo kinh nghiệm cá nhân trong những chuyến công du ngoại quốc đã ghi nhận, tôi được yêu cầu thuyết giảng về hoà bình và từ bi trước cử toạ đoàn, thường vượt quá số ngàn. Tôi không tin khoảng bốn mươi hay năm mươi năm về trước, các đề tài đó được lôi cuốn hấp dẫn số đông người như thế. Những tiến triển trên đây chứng tỏ tập thể loài người chúng ta ngày càng quan tâm nhiều hơn đến các giá trị căn bản như sự công bằngchân lý.

Tôi cũng rất an tâm trước sự kiện là, nền kinh tế thế giới càng phát triển, sự tuỳ thuộc vào nhau càng rõ ràng. Kết quả, mỗi quốc gia này, không nhiều thì ít đều phải liên hệ đến một quốc gia khác. Nền kinh tế tân tiến, như là môi sinh khôngbiên giới. Ngay cả những quốc gia thù nghịch với nhau cũng phải hợp tác trong việc sử dụng các tài nguyên thiên nhiên của thế giới.

Lấy ví dụ thông thường họ phải tùy thuộc chung vào một con sông. Và sự liên hệ kinh tế của chúng ta càng nương nhờ vào nhau thì tương quan chính trị càng phải hợp tác với nhau. Do vậy, chúng ta đã chứng kiến, chẳng hạn sự lớn mạnh của Liên Hiệp Châu Âu, khởi đầu chỉ từ vài khách hàng trao đổi mậu dịch nho nhỏ dẫn đến sự kết hợp của các quốc gia thành một liên bang với số thành viên hiện nay đã tăng gấp đôi. 

Chúng ta cũng nhận thấy hình thức tương tự, mặc dù kém phát triển, sự hợp tác trên thế giới của ba tổ chức: Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEANS), Tổ Chức Phi Châu Hợp Nhất (OAU) và Tổ Chức các Quốc Gia Xuất Cảng Dầu Hoả (OPEC). Mỗi tổ chức chứng minh một động lực nhân sinh về sự hợp tác vì lợi ích chung và phản ảnh sự liên tục tiến hoá không ngừng của xã hội con người.

Khởi đầu từ các bộ lạc nho nhỏ đã phát triển hình thành các đô thị tiểu quốc rồi đến quốc gia và hiện nay là các đồng minh bao gồm nhiều trăm triệu người, tiếp tục lớn mạnh vượt trên mọi lằn ranh phân chia địa dư, văn hoá và chủng tộc. Đây là chiều hướng tôi tin rằng sẽ và phải tiếp tục.

Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận rằng, song song với sự tăng trưởng của các liên minh chính trị và kinh tế, rõ ràng còn có sự tập hợp lớn lao hơn vượt các đường ranh phân chia giữa chủng tộc, ngôn ngử, tôn giáo và văn hoá - lại thường có bạo động tiếp diễn theo việc huỷ bỏ sự liên kết vào thể chế quốc gia.

Chúng ta nên làm gì trước sự kiện có vẻ mâu thuẫn đó - một bên là khuynh hướng hợp tác vượt quốc gia, còn phía kia là sự thúc đẩy của địa phương hoá? Thực ra, không cần thiết có sự chống đối giữa hai mặt. Chúng ta có thể hình dung nhìn thấy các cộng đồng địa phương hợp tác trong chính sách mậu dịch, xã hộikế hoạch an ninh chung; nhưng vẫn duy trì được sự đa dạng độc lập về nhân chủng, văn hoá, tôn giáo và các thứ khác.

Có thể thiết lập một hệ thống luật pháp, bảo vệ nhân quyền căn bản trong các cộng đồng lớn hơn mà vẫn để cho các cộng đồng nhỏ có quyền tự do theo đuổi đường lối sinh hoạt riêng của họ. Đồng thời, điều quan trọng trong việc xây dựng các loại hợp tác đó là sự tự nguyện và đặt nền tảng trên nhận thức về quyền lợi của các phần tử đều được phục vụ tốt đẹp hơn qua sự hợp tác. Họ không bị áp đặt.

Thực vậy, sự thử thách của thiên niên kỷ mới chắc chắn là sự đi tìm phương cách nhằm đạt đến sự hợp tác quốc tế - hay tốt hơn nữa, cộng đồng toàn thế giới - trong đó sự đa dạng của loài người được công nhậnquyền lợi của tất cả được tôn trọng.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2627)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2512)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2319)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2630)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2414)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3220)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2298)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2390)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2512)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2451)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2521)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2173)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2562)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3028)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2629)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2676)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2948)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2523)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2557)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4052)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2757)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3029)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3283)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2274)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2489)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2779)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2978)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2852)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2597)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2608)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3175)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2585)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2261)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2367)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2465)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2581)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2666)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2720)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3248)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2542)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2118)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2569)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2034)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2801)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2880)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2909)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2688)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2491)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2758)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2333)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant