Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Suy ngẫm nhỏ về phương tiệncứu cánh trong tinh thần Phật Pháp

29 Tháng Chín 201000:00(Xem: 14676)
Suy ngẫm nhỏ về phương tiện và cứu cánh trong tinh thần Phật Pháp

blankTrang VnExpress ngày 19/6/2010 đăng tin về một chiến binh al-Qeada giết cha, vì ông này làm việc cho Mỹ. Người cha bất hạnh tên Hameed al-Daraji, 50 tuổi, là một nhà thầu và phiên dịch viên cho quân đội Mỹ. Ông bị đứa con trai bắn vào ngực lúc 3 giờ sáng qua khi đang ngủ tại nhà ở Samarra.

Bài viết chỉ đưa vài dòng tin ngắn ngủi nhưng sức chấn động của nó quá lớn, khiến bất kỳ ai còn có lương tri đều không khỏi cảm thấy đau lòng. Đôi khi đọc báo, ta lại thấy có những tin về con giết cha trong cơn say hoặc cơn giận đến mất cả trí khôn, hoặc đọc lịch sử, ta thấy trong các vương triều phong kiến vẫn có chuyện con giết cha để tranh giành quyền lực; điều đó đã là quá khủng khiếp rồi, nhưng nó hoàn toàn khác hẳn với kẻ giết cha nhân danh một tổ chức, một lý tưởng.

Trong lịch sử phát triển của nhân loại, trên con đường đấu tranh để đạt đến lý tưởng, thì sự xung đột giữa gay gắt tình và lý, giữa cá nhân và tập thể, giữa đạo lýcông lý, giữa hạnh phúctrách nhiệm, giữa phương tiệncứu cánh vẫn luôn xảy ra. Đây là những vấn nạn thường đặt ra trong nền văn hóa nhân loại, để con người phải tìm ra được sự điều hòa chân thực giữa đạo trời và đạo người, làm sao cho xã hội vẫn tốt đẹplương tâm con người vẫn thanh thản, vì nền đạo lý vẫn được duy trì. Tìm được sự điều hòa cho mối tương xung tưởng chừng như bất khả vãn hồi đó sẽ là con đường dẫn con người đến với vẻ đẹp nhân văn, giúp con người sống đẹp đẽ hơn.

Giết người trong cơn nóng giận là sân, giết người để tranh giành quyền lực là tham, còn giết người vì lý tưởng là si. Huống gì kẻ bị giết đó là đấng sinh thành? Lý tưởng mà người chiến binh kia đang nỗ lực kiến tạo hoàn toàn được xây dựng trên nền tảng của Tham–Sân–Si; phương tiện thì đầy bạo lực mà lại muốn kiến tạo nên một xã hội tốt đẹp thì quả là vô minh quá đỗi.

Xây dựng nên một xã hội lý tưởng để tất cả mọi người đều sống hạnh phúc luôn là một cứu cánh vô cùng cao cả, một ước mơ của toàn thể nhân loại, nhưng liệu “chân diện mục” của xã hội đó sẽ ra sao, khi con đường dẫn đến xã hội lý tưởng đó được kiến tạo bằng quá nhiều bạo lực, và cả máu của người thân? Nếu tổ chức của người chiến binh kia mà thành công thì điều gì sẽ chờ đón nhân loại? Có gì có thể biện minh được cho một nền công lý, một thế giới lý tưởng được xây dựng trên máu của người cha? Liệu có loài hoa thanh bình nào có thể đơm bông trên nền đất của tội ác? Một người có thể thản nhiên giết cha để bảo vệ cho cái gọi là lý tưởng thì đối với người đó, liệu những người đồng loại còn có một giá trị nào chăng, hay chỉ được xem là một thứ chất liệu, một loại phân bón cho lịch sử, cho lý tưởng? Một tôn giáo hay một học thuyết nào cổ vũ cho điều đó chỉ có thể đưa xã hội đến sự băng hoại đạo đức, và dẫn đời sống tinh thần con người đến chỗ lụi tàn.

Lý tưởng mà ta muốn hướng đến dĩ nhiên được coi là cao đẹp, nhưng nếu để đạt đến cứu cánh cao đẹp đó ta lại phải hủy hoại không thương tiếc những điều thiêng liêng khác trong cuộc sống thì cái lý tưởng kia liệu có còn mang một giá trị nhân bản gì chăng, hay là nó đã thực sự băng hoại từ tận nền tảng? Văn hào Nga Dostoievsky cho rằng địa ngụctâm hồn không còn biết yêu thương. Đem cái tâm hồn không còn biết yêu thương đó để nỗ lực đấu tranh cho một xã hội lý tưởng thì cái xã hội đó chỉ có thể là địa ngục, hoặc là xã hội của những con robot vô cảm đã được lập trình.

Người ta thường nói “cứu cánh biện minh cho phương tiện”. Đây là cách lập luận rất được ưa dùng để biện minh cho những phương tiện mang tính bá đạo được dùng trong quá trình tiến tới cứu cánh. Lý luận vẫn luôn là con dao hai lưỡi mà con người thường vẫn dùng để bào chữa cho tội ácthủ đoạn, nhằm đánh bạt tiếng nói của lương tri. Câu “cứu cánh biện minh cho phương tiện” mới nghe tưởng chừng như rất hợp lý, nhưng thử hỏi một khi chưa đạt đến cứu cánh thì cái gì sẽ biện minh cho cứu cánh? Khi nóng lòng muốn đạt đến cứu cánh mà ta phải dùng mọi phương tiện, bất chấp thủ đoạn theo kiểu “vô sở bất chí” thì cứu cánh tự nó đã bị thối rữa rồi. Muốn đánh giá cứu cánh tốt đẹp hay không thì cách đơn giản nhất là nhìn vào bản chất của phương tiện. Nếu phương tiện đầy bạo lực và máu lửa, đầy những hành động tham sân si thì làm sao ta có thể tin rằng nó sẽ đưa đến một cứu cánh thanh bình an lạc?

Chỉ có những phương tiện mang tinh thần bất bạo độngthấm nhuần lòng từ bi mới có thể giúp con người đạt đến lý tưởng chân chính, đạt đến cứu cánh tốt đẹp thực sự để giải thoát cho con người. Cuộc đấu tranh bằng phương pháp bất bạo động của thánh Gandhi dẫu không dẫn đến thắng lợi hoàn toàn như mong muốn, nhưng phương tiện đầy tính nhân bản dùng trong cuộc đấu tranh đó đã mở ra những phương trời mênh mông cho tâm thức nhân gian. Người xưa hy sinh bản thân để thành tựu đạo nhân (sát thânthành nhân) hay Mạnh Tử bảo rằng “Làm một chuyện bất nghĩa, giết một kẻ vô tội mà được cả thiên hạ đều không nên làm” (Hành nhất bất nghĩa, sát nhất bất cô, nhi đắc thiên hạ, giai bất vi dã. Mạnh Tử – Công Tôn Sửu thượng) cũng nằm trong tinh thần đó.

Con người, trong suốt dòng lịch sử, luôn cho rằng dùng bạo lực để hủy diệt những cái được cho là xấu trên đời này, là cách đúng đắn duy nhất tạo ra tiền đề cho sự xây dựng nên cái mới tốt đẹp. Tư duy đó đã đem máu và lửa rải khắp đông tây, gây nên biết bao thảm họa cho nhân loại tự cổ chí kim. Biết bao nhiêu chuyện bất nghĩa đã diễn ra, biết bao nhiêu máu người vô tội đã đổ xuống cho tham vọng tranh giành thiên hạ. Dùng bạo lực –và do đó, thù hận – để kiến tạo cái mới thì bản thân cái mới cũng là một hình thức bạo lực mới mang đầy sự thù hận. Và sự thù hận đó sẽ là nguyên nhân để làm khởi phát sự thù hận khác. Giống như để loại bỏ cây đinh ra khỏi một khúc gỗ, ta phải dùng một cây đinh khác. Khi cây-đinh-cần-loại-bỏ đã bị trục ra ngoài thì bản thân cây-đinh-dùng-để-trục-cây-đinh-kia lại trở thành một chướng ngại mới trong khúc gỗ. Phương tiện được sử dụng để đạt đến cứu cánh lại tiếp tục trở thành cho chướng ngại mới cho một phương tiện khác. Và như thế cứ tiếp tục đến vô cùng. Đó là sự diễn tiến của dòng lịch sử được kiến tạo trên nền tảng của bạo lực.

Muốn kiến tạo nên một xã hội lý tưởng thấm nhuần vẻ đẹp nhân văn, như cảnh giới Tịnh Độ, thì phương tiện duy nhất chỉ có thể là Từ BiTrí Huệ. Đôi khi chính những người dẫn đắt các cuộc tiến hóa lịch sử đó phải hy sinh để khơi lại dòng lịch sử. Máu của tổng thống Lincoln, của mục sư Luther King, của thánh Gandhi… đổ xuống đã tô thắm cho những trang lịch sử đen tối của nhân loại.

Viễn cảnh con chim bồ câu vui đùa cùng sư tử như mong ước của Dostoievsky, cảnh tượnglão giả an chi, thiếu giả hoài chi” của đức Khổng Tử, hay kiến lập được một nhãn quan bình đẳng giữa sinh tử với Niết Bàn để đưa con người đến giải thoát của Phật giáo … vẫn mãi mãi là điểm hướng đến của mọi nền chính trị, mọi tôn giáotriết học. Biện pháp mà Dostoievsky đưa ra là dùng cái Đẹp để cứu chuộc thế giới, đức Khổng Tử dùng lễ nhạc, đức Phật dùng vô vàn phương tiện thiện xảo để từng bước dìu con người về bến giác.

Thay vì nói “cứu cánh biện minh cho phương tiện”, ta phải nói “phương tiện minh họa cho cứu cánh”. Điều này hiện rõ nét trong tinh thần Phật giáo chân chính. Kinh Giáo giới Phú lâu na có lẽ là một minh họa đơn giản nhưng vô cùng sâu sắc về tinh thần này. Kinh thuật lại chuyện tôn giả Phú lâu na [Punna], muốn xin phép đức Phật để đến xứ Sunaparanta (Tây Phương Du-na Quốc) để sống và truyền giáo.

Sau đây là cuộc đối thoại giữa ông và đức Thế tôn [bản dịch của T.T. Thích Minh Châu]:

“Này Punna, người nước Sunaparanta là hung bạo. Này Punna, người nước Sunaparanta là thô ác. Này Punna, nếu người nước Sunaparanta mắng nhiếc Ông, nhục mạ Ông, thời này Punna, tại đấy Ông sẽ như thế nào?”

“Bạch Thế Tôn, nếu người nước Sunaparanta mắng nhiếc con, nhục mạ con, thời tại đấy, con sẽ nghĩ như sau: ‘Thật là hiền thiện, người nước Sunaparanta này! Thật là chí thiện, người nước Sunaparanta này! Vì rằng họ không lấy tay đánh đập ta’. Bạch Thế Tôn, tại đây con sẽ nghĩ như vậy. Bạch Thiện Thệ, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.”

“Nhưng này Punna, nếu các người nước Sunaparanta lấy tay đánh đập Ông, thời này Punna, tại đấy Ông sẽ nghĩ như thế nào?”

“Bạch Thế Tôn, nếu các người nước Sunaparanta lấy tay đánh đập con; thời tại đấy, con sẽ nghĩ như sau: ‘Thật là hiền thiện, người nước Sunaparanta này! Thật là chí thiện, người nước Sunaparanta này! Vì rằng họ không lấy các cục đất ném đánh ta’. Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy! Bạch Thiện Thệ, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.”

“Nhưng này Punna, nếu các người nước Sunaparanta lấy các cục đất ném đánh Ông, thời này Punna, tại đấy Ông sẽ nghĩ thế nào?”

“Bạch Thế Tôn, nếu các người nước Sunaparanta lấy cục đất ném đánh con; thời tại đấy, con sẽ nghĩ như sau: ‘Thật là hiền thiện, các người nước Sunaparanta! Thật là chí thiện, các người nước Sunaparanta! Vì rằng họ không lấy gậy ném đánh ta’. Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy. Bạch Thiện Thệ, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.”

“Nhưng này Punna… lấy gậy đánh đập Ông… Ông nghĩ thế nào?”

“Bạch Thế Tôn, nếu các người nước Sunaparanta lấy gậy đánh đập con… ‘… Vì rằng họ không lấy đao đánh đập ta’… Bạch Thiện Thệ, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.”

“Nhưng này Punna,… lấy đao đánh đập Ông… Ông nghĩ thế nào?”

“Bạch Thế Tôn, nếu các người nước Sunaparanta lấy dao đánh đập con… ‘… Vì rằng họ không lấy đao sắc bén đoạt hại mạng ta’… Bạch Thiện Thệ, tại đấy, con sẽ nghĩ như vậy.”

“Nhưng này Punna, nếu các người nước Sunaparanta lấy dao sắc bén đoạt hại mạng Ông… Ông nghĩ thế nào?”

“Bạch Thế Tôn, nếu các người nước Sunaparanta sẽ lấy dao sắc bén đoạt hại mạng con; thời tại đấy con sẽ nghĩ như sau: ‘Có những đệ tử của Thế Tôn, ưu phiềnnhàm chán thân thể và sinh mạng đi tìm con dao (để tự sát). Nay ta khỏi cần đi tìm đã được con dao ấy’. Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy. Bạch Thiện Thệ, tại đấy, con sẽ nghĩ như vậy.”

“Lành thay, lành thay, này Punna! Này Punna, Ông có thể sống trong nước Sunaparanta, khi Ông có được đầy đủ sự nhiếp phục và an tịnh này. Này Punna, Ông nay hãy làm những gì Ông nghĩ là hợp thời.”

Đoạn kinh văn trên đây phản ánh tinh thần Từ Bi chân chính của Phật giáo khi hoằng pháp. Người xưa không chỉ xả thân cầu pháp mà còn xả thân hoằng pháp. Chỉ cần nhìn vào “phương tiện” là tinh thần xả thân hoằng pháp của Punna, thì “cứu cánh” là chính pháp chưa cần nghe giảng, ta cũng có thể hình dung được rồi. Cũng như Niết Bàn là gì, “đáo bỉ ngạn” là gì, đó là cứu cánh ta khoan vội bàn, nhưng chỉ cần nhìn vào phương tiện để đạt đến cứu cánh đó, là Từ BiTrí Huệ, là lục độ thì ta cũng có thể hình dung cứu cánh đó sẽ là phương trời giải thoát bao la.

(Nguồn: Talawas)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2220)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2656)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2522)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2346)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2661)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2434)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3247)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2320)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2410)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2534)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2536)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2193)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2578)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3046)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2647)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2706)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2988)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2552)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2589)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4086)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2768)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3064)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3305)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2286)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2500)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2999)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2868)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2605)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2628)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3188)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2270)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2383)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2475)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2595)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2685)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2742)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3265)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2556)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2128)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2594)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2050)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2902)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2937)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2707)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2508)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant