Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Địa chỉ cuối cùng

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 19792)
Địa chỉ cuối cùng


Bà Tú nằm lã người trên chiếc đi-văng đặt ở góc phòng khách, bên cạnh cửa ra vào. Đã ba ngày nay, cơn đau hành hạ bà đến khốn khổ, đấy là di chứng của những trận đòn do lão Bạch để lại... Bà nằm đó rúm ró như một nắm giẻ rách và xép ve khô đét như chiếc lá.

Bà rên khẽ mỗi khi cựa mình xoay trở bởi sự va chạm, chà sát giữa mặt phẳng đi-văng với những khớp xương sống, xương hông... Bộ quần áo rộng phùng phình cũng không che giấu nỗi lồng ngực kẹp lép với hai hàng xương sườn như muốn loài hẳn ra ngoài lớp da bụng và lớp áo theo những nhịp thở mệt nhọc mỗi lần thở ra, hoặc hít vào, bà phải ưỡn người lên một cách khó khăn và cảm tưởng như có cả tảng đá đang đè lên hai lồng ngực. Chín lần làm mẹ và chín lần cai sữa, bà vẫn có cảm tưởng nặng nề khó thở giống nhau, nhưng đó là cái nặng nề khó thở, đầy niềm vui và nỗi tự hào - bởi loại bỏ cái khổ đau bất hạnh, thì bà vẫn có niềm hạnh phúc của người mẹ, niềm hạnh phúc của chín tháng cưu mang ba năm bú mớm... Nhưng bây giờ, bà nằm đây trong nỗi đau vô tận cả về thể xác lẫn tâm linh, cô độc giữa ngôi nhà có đủ chồng con, và nghèo nàn gần như phá sản bởi của cải đã cạn dần theo chiều cao thân xác, trí tuệ, học vị của bầy con ấy đã từng là niềm hạnh phúc, là nỗi tự hào, là điểm tựa tinh thần, là mục tiêu phấn đấu khiến cho bà đủ can đảmnghị lực để vượt qua mọi khó khăn khi phải đối mặt chiến đấu với cơm áo gạo tiền. Cũng vì bảo vệ sự bình yên êm ấm cho bầy con ấy, nên bà đã cắn răng chấp nhận mọi thống khổ oan khiên, mọi nghịch cảnh vô lý, vô đạo của nhà chồng, của lão chồng tai quái như cáo diều và độc địa man rợ như những dân tộc bán khai thời trung cổ.

Dưới mắt lão Bạch - chồng và bầy con bây giờ đã nên vai vế, đã có chỗ đứng vững vàng trong xã hội thì hình ảnh của người vợ đảm đang, người mẹ từng tất tả ngược xuôi vì chúng nó không còn nữa, người mẹ mà chúng nó đã từng tự hào, hãnh diện với bạn bè về mọi mặt, đối với chúng nó bây giờ bà chỉ là cái hạng “nghèo sát ván mà cứ nói ngon”, là phong kiến lạc hậu v.v… và v.v...

Còn với lão Bạch, bà là một “mụ thối thây vô tích sự đau ốm suốt”, thành ra mỗi lần bà trở bệnh liệt giường không dậy được là lão bỏ đói bà luôn. Bà nằm vừa đói vừa khát đưa mắt nhìn về phía cha con lão Bạch - đã rất nhiều lần định kêu chồng hoặc con cho bà miếng nước, song thấy gương mặt cáu có và lạnh ngắt của lão ta là bà Tú hết muốn kêu gọi cầu xin. Cứ mỗi lần bà nằm thế nầy là cha con lão Bạch lại đi ăn tiệm, ăn xong lão mang cái mặt đỏ gay như mặt trời và kè kè chai rượu, lắc lư tấm thân phì nộm chân nam chân bắc bước xiêu vẹo vào nhà là bà run lên bần bật bởi biết những tai họa đang đợi bà phía trước...

Chiều nay, bà cố gắng ngồi dậy vịn vào tường bước từng bước khó nhọc xuống nhà bếp với ý định nấu chút gì ăn tạm - để có sức thực hiện một quyết định mà bà đã ấp ủ bao ngày...

Vị lão Ni ngồi thẳng người tay lần tràng hạt trong khi bà Tú chắp hai tay trước ngực đứng nghiêm trang tuần tự trình bày nguyện vọng và cầu mong sự chấp thuận của bậc chân tu, giọng bà khẩn thiết:

- Kính bạch Sư bà con tự xét với xã hộigia đình con đã làm tròn bổn phận làm con, làm dâu, làm vợ, làm mẹ, bây giờ là lúc con tự lo cho bản thân mình, cho sự an tịnh của thân tâm, con chưa đủ trình độ để đạt tới cảnh “tùy ngộ nhi an”, nên con rất cần có cảnh để tạo tâm. Vậy, mong thầy hoan hỉ cho con ở lại chùa để tiện việc hành trì tu tập.

Cất giọng từ hòa, vị Ni trưởng của ngôi cổ tự vừa nói vừa nhìn vào một điểm nào xa tít tắp:

- Tất cả tâm nguyện của con đều hợp với lẽ đạo tình đời. Lẽ nào thầy không tán thán, tất cả chỉ là sự trợ duyên. Cái chính là mỗi người phải tự giác ngộ bản thân và tự thắp đuốc soi sáng trên lộ trình tu học của chính mình.

Bà Tú sung sướng đón nhận đạo pháp của bậc chân tu đạo hạnh với cõi lòng nhẹ nhàng, êm dịu như vừa hứng được ngọn gió mát lành, thổi bay biến bao muộn phiền hệ lụy, cúi đầu đãnh lễ vị lão Ni, bà Tú bước thụt lùi ra ngoài phương trượng để xuống hậu liêu bằng niềm an lạc của một tâm hồn đã tìm được nẻo về.

Những tháng ngày thanh tịnh bình yên ở Tu viện đã giúp bà Tú quên hết mọi hệ lụy phàm phu, bệnh hoạn cũng không hành hạ bà như trước đây. Từ khi bà lên ở chùa, lão Bạch có phần thay đổi, lão lên chùa thường xuyên để lễ Phật và nhiều lần ngỏ ý đưa bà về nhà với những lời hứa hẹn tốt đẹp, song bà Tú nhất định không về, bà trình bày những lý luận xác đáng, lão đành hậm hực ra về. Có một lần lão giả say lên chùa quậy phá đòi Sư bà phải trả vợ lão về, nếu không lão sẽ đi kiện nhà chùa, Sư bà chỉ ngồi yên niệm Phật và bảo các điệu dọn cơm chay mời lão....

Tiếng gọi nhỏ của điệu Hiếu trước cửa phòng làm bà Tú xếp cuốn sách đang đọc bước vội ra hành lang, trước mắt chín đứa con đang đứng lô nhô chờ đợi, một thoáng xúc động bất ngờ đánh thức bản năng làm mẹ - bà dang tay ôm đứa con bé nhất vào lòng, mấy cái miệng chúng đồng thanh kể lể:

- Mẹ ơi! Mẹ hãy tha tội cho chúng con, chúng con xin đón mẹ về, mấy tháng xa mẹ chúng con đã hiểu ra điều ấy.

Bà Tú cố giấu nỗi xúc động cất giọng ôn tồn:

- Cảm ơn các con đã nghĩ đến mẹ, xong bây giờ mẹ đã quen với nếp sống thanh tịnh, nếu các con thương yêu mẹ thật sự thì nên tôn trọng tâm nguyện của mẹ, và để mẹ tiếp tục sống ở chùa, thỉnh thoảng nhớ mẹ, thì các con cứ lên chùa lạy Phật và thăm đại chúng, thăm mẹ. Mẹ cũng chẳng lột da để sống bên các con mãi được. Khi khôn lớn, mỗi đứa đều có đời sống riêng, mẹ về chỉ bận rộn cho các con, mà chẳng ích lợi gì cho thân tâm mẹ, quay qua đứa con trai lớn, bà nhẹ nhàng căn dặn:

- Các con nên chăm sóc ba cẩn thận, đừng để ba rượu chè nhiều quá, anh em hãy sống tốt với nhaucư xử tình nghĩa với mọi người, với xóm giềng, và nên giúp đỡ nhau khi tắt đèn tối lửa. Làm được các việc trên, đó là cách các con biểu lộ tình thươngthể hiện lòng hiếu để đối với mẹ rồi các con ạ.

Tiếng chuông chiều trên Đại hùng bửu điện vọng xuống, báo hiệu giờ công phu đã đến, mấy người con từ giã mẹ, rồi xuống núi, bà Tú tần ngần nhìn theo, trước khi quay mình bước vào chánh điện dự khóa lễ chiều bằng nghi thức Tịnh Độ.

Nguồn: Tập San Pháp Luân 15


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2221)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2657)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2525)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2350)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2665)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2436)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3248)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2320)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2411)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2543)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2539)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2194)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2579)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3047)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2649)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2707)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2989)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2554)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2592)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4089)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2774)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3064)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3306)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2289)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2500)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3000)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2869)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2608)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2633)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2271)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2385)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2476)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2595)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2687)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2744)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3266)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2556)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2130)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2598)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2052)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2905)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2939)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2714)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2509)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant