Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bên Khu Rừng Trúc

02 Tháng Mười 201000:00(Xem: 18189)
Bên Khu Rừng Trúc

Bảo Lâm bước chậm lại... ý như để lắng nghe tiếng chim hót líu lo từ phía khu rừng trúc. Vài tia nắng nhẹ vừa xuất hiện phía hừng đông, bầu trời trong xanh văng vắt làm tan biến hết mọi khoảng vắng đêm tối còn sót lại. Những cành trúc mềm mại khẽ run lên theo chiều gió, và tiếng chim hót trên mấy rặng cây cao trở nên nhịp nhàng và ru hồn hơn. Bảo Lâm lấy làm lạ khi thấy mình cảm nhận được điều đó. Cảnh sắc bên ngoài dường như đang tác động vào và trở nên gần gũi với lòng chú.

Con đường đất từ chùa băng qua khu rừng trúc từ ngày Bảo Lâm về được phát quang rộng thoáng hơn. Hoa rừng cỏ dại mọc xen lẫn trên lối mòn tôn tạo thêm vẻ đẹp hài hòa giữa thiên nhiên và cuộc sống. Ngôi thạch thất nằm tận cuối khu rừng, trên một ngọn đồi nhỏ nên gió nắng cứ mặc sức tỏa lộng. Mỗi sáng chiều Bảo Lâm mang thức ăn và nước uống lên đây, đưa qua khe nhỏ bên khung cửa sổ cho sư phụ đang nhập thất bên trong. Ba tháng rồi chú vẫn đều đặn làm công việc này, như một bổn phận thiêng liêng của người đệ tử. Hẳn sư phụ không ngờ người hầu thất cho mình lại là chú tiểu Bảo Lâm ngày trước.

- Sư đệ về, nhưng sư phụ nhập thất đã gần một năm rồi. Cuối hạ này Người mới ra. Nếu không có gì sư đệ có thể ở lại. Hay là...

- Thưa không, đệ sẽ ở lại chờ sư phụ. Sư huynh cho đệ được hầu thất trong mấy tháng còn lại này nhé.

Ngày ấy, trong ngôi chùa lá đạm bạc, mấy thầy trò ngày ngày khổ công khai hoang phát rẫy, không bao lâu cả cánh đồng lúa bắp tùy theo mùa phủ kín cả mặt đất. Khu rừng trúc rộng hơn mười mẫu tây, là do sáng kiến của sư phụ muốn hình thành cảnh quan mới cho chốn đại tòng lâm, và cũng tạo nguồn thu nhập chính cho chùa - vì trúc là mặt hàng tiêu thụ mạnh cả trong và ngoài nước. Qua cơn bĩ cực, Bảo Lâm cùng mấy sư đệ được thầy gởi lên thành phố theo học lớp trung cấp Phật học vừa mới mở. Dù còn nhỏ nhưng Bảo Lâmchú tiểu khôi ngô lại sớm bộc lộ sự thông minh đĩnh đạc hơn hẳn các huynh đệ. Chú học rất giỏi, được thầy yêu bạn quý, ai cũng đặt tin tưởng vào tiền đồ xán lạn ngày mai của chú. Thế mà những ưu điểm đó đã trở thành vấn nạn cho cuộc đời tu học của chú sau này không ít.

Về thành phố, Bảo Lâm theo học cả hai chương trình đạo và đời. Thời gian đầu, những ngày nghỉ lễ, Tết, chú đều trở về chùa phụ thầy và mấy sư huynh. Việc học hành tiến triển thuận lợi, Bảo Lâm luôn là niềm tự hào cho quý thầy giáo thọ. Học giỏi, đạo hạnh, trang nghiêm, phong cách chững chạc và từ tốn, lễ độ với mọi người. Phật tử lui tới học viện đều yêu mến và dành cho chú nhiều sự ưu ái kính phục.

- Bảo Lâm! Hôm nay sư phụ ra thất, sư đệ không đắp y áo lên đón sao?

- Em không dám lên gặp Người..., sư huynh à! Mà chắc sư phụ không còn nhớ em đâu. Thôi, cho em ngồi ở đây được nhìn và đảnh lễ thầy từ xa, rồi em sẽ ra đi.

- Sao đệ lại nghĩ như vậy. Dù đã nhiều năm sư đệ không về, nhưng sư phụ luôn nhắc đến em. Người biết hết mọi chuyện ăn ở tu học của đệ mà không bao giờ nói gì cả. Lòng thầy cũng ví như cha mẹ. Con có ra sao thì cha mẹ cũng không bao giờ chối bỏ. Sư phụ lúc nào cũng hết lòng tin tưởng thương yêu đệ.

- Đệ không xứng đáng được như vậy đâu... Sư huynh đừng...

- Sư huynh nói thật lòng chứ không có ý gì. Mà thôi, đệ đã trở về, vẫn còn nguyên vẹn một tâm hồn trong màu áo đạo. Con đường tu vốn có nhiều thử thách mà, điều duy nhất còn lại là mình luôn biết thức tỉnh trở về.

* * *

... Những đêm trăng sáng có thể đọc được cả những hàng chữ Nho bé tí in trên những hàng cột ngoài hiên chùa, thầy trò sau thời kinh tối thường bắc ghế ra ngồi trước sân ngắm trăng đàm đạo. Không gian lắng dịu bởi hương thơm của hoa cỏ mọc quanh chùa, của gió mát trăng thanh làm cho thâm tình thầy trò càng thêm cởi mở thắm thiết. Bảo Lâm nhớ hôm về thăm chùa lần trước, cũng một đêm trăng sáng, sư phụ hỏi:

- Bảo Lâm này, sao con có vẻ trầm tư quá vậy. Chuyện học hành ra sao rồi? Hay có điều gì nói thầy nghe thử coi?

- Dạ thưa thầy, không có gì. - Bảo Lâm trả lời mà tránh nhìn sư phụ - Tại hôm nay trong người con không được khỏe thôi.

Đây là lần đầu tiên chú nói dối và cũng là lần cuối thầy trò còn ngồi ngắm trăng bên khu rừng trúc. Suốt buổi tối hôm đó, chú chỉ yên lặng, mắt chăm chú vào từng lời từng câu sư phụ nói mà đầu óc thì nghĩ ngợi đâu đâu. Sư phụ đang kể một câu chuyện về "Con Vàng bị mắc cạn". Cá vàng là loại quý hiếm người ta mua về để thả chơi làm kiểng. Con cá vàng này luôn được cha mẹ nhắc nhở là đừng đi ra nơi dòng nước cạn. Nhưng nó vốn ham vui, thích bay nhảy cho thỏa chí tung hoành. Thế rồi khi mải vờn theo đám rong rêu phiêu bạt, cá bị bọn trẻ con giăng lưới bắt được. Từ đó phải sống đời cá chậu chim lồng không còn tự do vùng vẫy. Câu chuyện về con cá mang nhiều ngụ ý đeo đẳng theo Bảo Lâm đến tận bây giờ. Sáng sớm hôm sau chú đã vội vã rời khỏi núi rừng để dấn thân vào những cuộc hành trình mới. Cuộc hành trình không hề phẳng lặng như chú hằng nghĩ.

Bảo Lâm rời khỏi Phật học viện. Cành trúc xanh đã không thể đứng vững trước cơn cuồng nộ của gió ngàn. Con cá vàng bị vướng vào vòng lưới giăng của đám bụi trần lúc nào mà chú không hề hay biết. Với tư chất thông minh, học giỏi, tài hoa hơn người, nhưng vì tự mãn và vọng động nên Bảo Lâm luôn cho mình có quyền sống theo mọi ý thích. Giao du nhiều, đua đòi và đi đứng quên cả giờ giấc nội quy ở Phật học viện, có khi bỏ những giờ học chính quy, bỏ hết mọi lời khuyên răn khiển trách của Ban Giám viện, của quý thầy cùng mấy huynh đệ đồng tu học.

Mọi việc rồi cũng kết thúc theo một chiều hướng nào đó không như mình mong đợi nhưng không nằm ngoài dự đoán của bao người. Cho đến năm thứ ba thì Bảo Lâm học hành sa sút hẳn, phạm nhiều quy chế của một học Tăng, bị buộc rời khỏi nội viện, sau đó phải lưu trú qua nhiều nhà Phật tử. Cuộc sống buông lung không có điểm dừng cứ thế trôi qua. Dù Bảo Lâm không muốn từ bỏ con đường mà mình đã chọn, nhưng hầu như chú đã quên hết chí nguyện của thuở phát tâm ban đầu, đánh mất hết niềm tin, sự kỳ vọng của thầy tổ huynh đệ, và đôi khi đánh mất luôn cả bản thân mình. Cho đến khi chú bất chợt nhìn lại mình, thấy thật xa lạ và trống trải làm sao trong cảnh bụi xe ngất ngưởng. Bảo Lâm vội vàng lánh xa những gì mà chú từng mơ ước tìm kiếm. Nhưng chú vẫn không dám trở về thăm sư phụ, mà lại bắt đầu một bước đường rong ruổi mới... lang thang vô định khắp chân trời cuối biển như một gã cùng tử... bỏ quên hết mọi lối về quê cũ.

Một lần Bảo Lâm dừng chân bên ngôi chùa vốn là một danh lam nổi tiếng ở tận xứ Bắc. Có mấy đoàn hành hương đang ghé lại tham quan, nhìn mấy tà áo tu sĩ qua lại, gợi cho Bảo Lâm nhớ nhiều về một thời ở Phật học viện. Lánh tìm đến ngồi bên một ao sen nhỏ vắng vẻ sau chùa, soi bóng xuống dòng nước, Bảo Lâm giật mình khi không thể nhìn ra một con người tiều tụy xác xơ, manh áo nâu bạc thếch theo thời gian, tóc tai lởm chởm vì nhiều tháng rồi chưa cạo. Lúc này nếu có gặp người quen thì...

- A! Sư huynh Bảo Lâm. Đúng là sư huynh đây rồi... Sư huynh đi đâu ra tới ngoài này... mà sao... nhưng thôi sẵn có xe hành hương, sư huynh theo em về thăm sư phụ đi. Người trông sư huynh lắm đó.

Hai huynh đệ bất chợt gặp nhau, mừng vui hỏi thăm vồn vã làm cho Bảo Lâm bớt đi sự ngỡ ngàng. Sư đệ nói nhiều về thầy, về những chuyện ở chùa kể từ ngày Bảo Lâm không trở lại.

- Gặp được sư huynh, đệ mừng quá. Thầy cứ bảo mấy huynh đệ đi tìm hỏi thăm xem sư huynh ở đâu. Sư huynh biết không, khi nghe sư huynh rời khỏi học viện, Người buồn quá, cho chặt hết vườn trúc và bỏ phế luôn không chăm sóc tới nữa. Vậy mà qua một trận mưa, trúc lại nẩy mầm, xanh tươi rồi lớn nhanh một cách kỳ lạ. Bây giờ mỗi khi ra thăm trúc, sư phụ thường nói: "Thầy tin tưởng Bảo Lâm có ngày sẽ trở về, như từng tin vào những bụi trúc này cũng trở lại xanh tươi như trước".

- Sư huynh, dù sao cũng về thăm sư phụ một lần chứ.

Bảo Lâm nhìn người sư đệ thân tình mà không nói gì. Nhưng rồi chú cũng đã trở về...

* * *

- Bảo Lâm, sư phụ đang đợi đệ trên phương trượng.

- Sư phụ biết em về rồi sao sư huynh?

- Sư huynh chưa kịp thưa, nhưng Người đã biết. Chắc khi đệ hầu thất, sư phụ nhìn thấy.

Sư phụ khẽ gật đầu khi Bảo Lâm bước vào lạy chào. Lúc này mặt chú đã bình thản hơn dù vẫn còn phảng phất đôi chút ưu tư. Như thấu hiểu tâm trạng của người đệ tử, Người không hỏi gì nhiều, chỉ nhẹ nhàng nói: - Con đã trở về. Thầy biết trước sau rồi con cũng sẽ trở về. Những dư vị cuộc đời chắc con đã nếm qua. Nếu như con biết trở về, biết sống trong niềm tin chánh đạo thì hãy xem mọi chuyện xảy ra như hạt sạn có làm đôi chân mình vấy đau lên đôi chút, nhưng cũng giúp con vững vàng hơn trên mỗi chặng đường đi tới. Con phải vứt bỏ hết bao ưu tư mặc cảm trong lòng, cứ ở lại đây với thầy và huynh đệ một thời gian. Rồi con sẽ thấy tình người và cuộc sống nơi cảnh thiền môn yên tĩnh này sớm giúp con lấy lại những gì mình đã đánh mất. Quan trọng hơn hết là con phải biết tự mình đứng lên.

Đưa tay chỉ ra khu vườn trúc, Người nói tiếp: "Con nhìn xem, vườn trúc này đã lớn lên trong sự chắt chiu của khí trời đất nước cùng bao công sức vun đắp của mấy thầy trò chúng ta. Có lần thầy cho chặt đốn hết, định phá bỏ. Nhưng khi trời đất giao mùa, chỉ sau vài cơn mưa, nó lại nẩy mầm rồi xanh tươi còn hơn cả trước kia. Con người ta cũng không dễ dàng bị đánh đổ bởi ngoại cảnh một khi niềm tindũng khí vẫn còn đó, cho đến một lúc nào cũng sẽ đâm cành nẩy lộc trở lại. Bài học về những cây trúc này đáng để cho ta suy nghiệm về đường tu của mình đấy con ạ.

Có cơn gió vừa thổi đến làm bạt đi vài cụm mây đen từ phía chân trời. Mênh mông trong làn sương khói giữa núi rừng, những hàng trúc xanh vẫn cứ vươn lên uyển chuyển theo chiều gió lộng. Khi cùng sư phụ dạo quanh con đường lên thiền thất, Bảo Lâm chợt ngộ ra chân lý nhiệm mầu về sự sống đó. Cuộc sống của chú chỉ mới bắt đầu từ buổi bình minh được trở về bên khu rừng trúc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 728)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 744)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 742)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 629)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 826)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1213)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1381)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1101)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1441)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 908)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 810)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 915)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 930)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 894)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 923)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1059)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 880)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1021)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1034)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 954)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 962)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 886)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1057)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1001)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 924)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1036)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 956)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 889)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 993)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 931)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1182)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 962)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1041)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1213)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1650)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1206)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1285)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1151)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1004)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 964)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 993)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 842)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1525)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1395)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1371)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1311)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1406)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1360)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1505)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1380)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant