Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Oai Nghi - Tế Hạnh Của Người Xuất Gia

07 Tháng Tám 202417:14(Xem: 2323)
Oai Nghi - Tế Hạnh Của Người Xuất Gia
Oai Nghi - Tế Hạnh Của Người Xuất Gia  

HT. Thích Minh Hiền


chu tieu 10

Phàm là người xuất gia ở chốn Tòng Lâmtự viện, phải sống đời phạm hạnh, nghiêm trì giới luật đã thọ, giữ gìn oai nghi tế hạnh là trang nghiêm tự thân, kính trên nhường dưới, từ ái với mọi người.

Vì Tăng Ni chính là đoàn thể tiêu biểu cho ý nghĩathanh tịnh, luôn nêu cao tác phong đạo đức của người xuất gia, xứng đáng là Tăng Ni mô phạm của mọi người, bậc gương mẫu của bốn chúng, hướng đến giải thoát sanh tử. Vì chưa phải là những bậc toàn thiệntoàn mỹ nên phải thể hiện sự chơn tu qua phương pháp hành trì theo lời Phật dạy như: Niệm Phật – Trì Chú hoặc Tham Thiền.

Bước đầu xuất gia học đạo, tâm ý Tăng Ni rất thành kính mạnh mẽ và cao thượng nên được Thầy thâu nhận, cho tập sự, dạy bảo rất chân tình. Đi, đứng, ngồi, nằm, nói năng, thưa hỏi, xá chào, ăn uống, ngủ nghỉ đều trong qui củ của thiền môn. Sau khi được cạo tóc xuất gia thì Thầy hoặc những người đi trước chỉ dạy, đánh khánh, chuông, mõ, lời kinh tiếng kệ cho đúng nghi thức, dạy chúng ta Tỳ Ni, oai nghicảnh sách.

Nếu muốn chuyên sâu rộng hơn nữa Tăng Ni được Thầy cho phép đến các trường Phật học. Khi vào các trường, lớp Tăng Ni phải tuân theo qui củ của trường, lớp. Tăng Ni vô trướcThầy giáo thọ vô sau, khi tan học Thầy ra trước mình ra sau. Trong giờ học nếu Tăng Ni quay ngang, nhìn dọc hoặc nói chuyện v.v … không chú ý lắng nghe giảng dạy thì được sự nhắc nhở của ban giám thị. Khi được thọ giới thì có ban quản giới tử giám sát, nhắc nhở khi có lỗi lầm, ban điển lễ chỉ bày lúc nào quỳ, khi nào lạy. An cư kiết hạ thì giới luật và thanh quynghiêm minh hơn sẽ đem đến cho mình sự an lạc thù thắng hơn.

Từ sơ tâm học đạo cho đến trưởng thànhTăng Ni chúng ta đã trải qua những bước thăng trầm của cuộc sống, vui buồn đều có, cũng may mắn thay Tăng Ni luôn luôn đều nhờ sự dắt dìu, đùm bọc, chở che của những bậc Thầy cao cả, giới đức kim ưu.

Cổ đức thường dạy: Hổ ly sơn hổ bại, Tăng Ni ly chúng Tăng Ni tàn. Cho nên, Tăng Ni lập hạnh quyết định nguyện trụ tòng lâmtự viện vì là nơi trang nghiêm thanh tịnh, chỗ tu học của người xuất gia đệ tử Phật, là nơi hướng thượng của người niệm Phậttrì chú hoặc tham thiền, là nơi giác ngộ của bậc hiền Thánh, chỗ kiến tánh của Tổ sư, những bậc tiền bối Tổ Sưcủa chúng ta từ thập niên 20 - 30 của thế kỷ trước (XX) đứng ra chấn hưng Phật Pháplợi ích hữu tình cũng xuất phát từ đây, là chỗ an thân lập mạng của mỗi người tu nên phải quyết định thề nguyền dù tán thân mất mạng cũng không rời khỏi chốn này. Nếu rời khỏi Tòng lâm, Tự, Viện thì cô phụ hạnh nguyệnlập chíquyết định thuở ban đầu của chính mình thì bị nghiệp lực lôi cuốn trong lục đạo luân hồi. Bởi nơi đây đều có các bậc thiện tri thức thấu rõ phương pháp tu hành hướng dẫn, truyền trao cho Tăng Ni chúng ta thành tựu giới thân huệ mạng là nơi đào tạo Tăng, Ni có đủ tài đức, đạo hạnh trang nghiêm để gánh vác Phật sựlợi ích chúng sanh.

Ví như, trong lòng đất có quặng vàng được khai thác lên nhưng chưa xài được vì còn lẫn nhiều tạp chất, phải trải qua thời gian tôi luyện, gạn lọc loại bỏ hết tạp chất mới dùng được. Nếu đem cất kỹ hay quăng bỏ bất cứ nơi đâu cũng là vàng ròng.

Cũng vậy, Tăng Ni bắt đầu niệm Phật thì tâm còn nhiều tạp loạn,  lâu dần tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. v.v… được loại bỏ chỉ còn niệm thiện thì tâm hay cung kínhbố thícúng dường, khiêm tốn với mọi người. Đi, đứng, ngồi, nằm hằng niệm Phật không gián đoạn thì đạt đến chỗ nhất tâm bất loạn, an trụ trong chánh niệm, chuyên sâu hơn nữa thì sẽ đạt đếnchỗ liễu tâm.

Tăng Ni có trì chú. Đi, đứng, nằm, ngồi không gián đoạn thì thân, khẩu, ý được tương ưngsở cầu được như ýlợi ích chúng sanh. Nếu tiến sâu hơn nữa thì cũng được liễu tâm.

Tăng Ni có tham thiền luôn đề khởi câu thoại đầu, có nghi tình thì mọi tạp niệm sẽ bớt dần. Công phu được miên mật thì nghi tình sẽ thành khối, cắt đứt được mọi vọng niệmthình lìnhnghi tình tan vỡ thì tự tánh tự hiện, thấu rõ được chính mình để làm chủ cho mình, đến đi tự tại.

Dù niệm Phậttrì chú hay tham thiền đều phải đạt đến liễu tâm. Vì thấu rõ được bổn tâm hay cứu cánh tâm thì sanh tử mới có phần tự do giải thoát. Cũng chính vì nỗ lực công phu tu tậpnên Tăng Ni được an trụ trong chánh niệm. Do vậy giới luật không hề vi phạm, nên:

- Thân khi đi luôn ngay thẳng, mắt chẳng ngó liếc hai bên, ung dung tự tại.

- Đứng thì trang nghiêmchân không kiểng, bên cao, bên thấp, tay không chống nạnh.

- Ngồi lưng thẳng , đầu ngay không chồm phía trước, ngữa phía sau, không ngồi bó gối, không gác chéo, gác ngang, gác lên bàn, cũng không nương tựa bất cứ nơi nào.

- Nằm theo thế kiết tường, nghiêng bên phải, luôn không sái thời.

- Khẩu không nói vọng ngữthêu dệt dù một việc rất nhỏ, không chưa nói đã cười hoặc vừa nói vừa cười, luôn nói lời hòa nhã từ tốn với mọi người, nói lời đúng như chánh pháp khiến cho mọi người kính tin Tam Bảophát nguyện tu trì.

- Ý thường thấy lỗi mình - không thấy lỗi người, không khinh người sơ tâm học đạo. Vì luôn luôn có chánh niệm.

Do sống trong tòng lâmtự viện, nương với đại chúng, mọi sinh hoạt đều theo thiền mônthanh quy mà hành sự. Ban chức sự, thanh chúng giờ nào việc đó, ai có bổn phận nấy.

- Giờ công phu: khi nghe hiệu lệnh, không trễ nãi, pháp phục nhẹ nhàng trang nghiêm là tế hạnhtụng kinhniệm Phậttrì chúngồi thiền luôn hòa nhịp với đại chúng là tế hạnh, khi đi kinh hành chân bước nhẹ nhàng ngay thẳng là tế hạnh.

- Giờ thọ trai: kéo ghế ngồi cũng như đứng dậy không gây tiếng động là tế hạnh, không ăn mích lòng chúng là tế hạnh, không khua chén đũa, vật thực rơi đỗ là tế hạnh.

- Giờ chỉ tịnh: ngủ, thức đều đúng giờ là tế hạnh, không loạn đơn, gây tiếng động cho người bên cạnh là tế hạnh.

- Giờ tắm giặt và vệ sinh: sinh hoạt cá nhân biết tôn trọng kính nhường người là tế hạnh, tắm giặt không xối nước ồn ào trong phòng tắm, phòng vệ sinh là tế hạnh. Rời khỏi phòng tắm, phòng vệ sinh luôn sạch sẽ là tế hạnh. Phơi y phục không làm ước đồ đã khô của người bên cạnh là tế hạnh. Biết tiết kiệm điện nước, vật dụng của thường trụ là tế hạnh.

Được sống trong đại chúng, thân cận với bậc minh sư theo thiện tri thức nhắc nhở Tăng Nigiữ gìn giới luật đã thọ, tôn trọng thanh quy giúp ích cho Tăng Ni chúng ta tăng trưởng đạo hạnh trang nghiêmoai nghi tế hạnh được vẹn toàn. Trong khế hợp với chân như, ngoài hiển bày được phạm hạnh của người xuất gia.

Khi hội đủ nhân duyên ra ngoài xã hội tùy nghi giảng kinh, thuyết đúng như chánh pháphoạt động từ thiện làm lợi ích chúng sanh, được mọi người mến mộ oai nghitế hạnh của Tăng Nitrẻ họ sẽ quay về nương tựa Tam Bảohộ trì chánh pháp khiến được lâu dài.

Thế là Tăng Ni đã lưu bố được dòng thánh pháp vào cuộc đời xuôi ngược, làm an lạc chúng hữu tình. Phật pháp ngày mai có hưng thịnh hay không! đều trông cậy vào Tăng Ni trẻ, lúc nói năng, động tịnh, tạo tác thi vi, tu trì hoặc im lặng đúng như chánh pháp. Trên thì có thể đền đáp được bốn ân nặng - Dưới có thể cứu giúp được ba đường khổ.

Ngày tháng qua mau nếu phạm hạnh không tròn, một khi mất thân người rồi thì bị đọa lạctrong chốn tam đồ muôn kiếp khó được lại, Tăng Ni hãy nỗ lực tinh cần hạ thủ công phu thì oai nghitế hạnh tự hiển bày, tâm luôn an trụ trong chánh niệm mới mong có ngày giác ngộgiải thoátNếu không được như thế thì Tăng Ni chúng ta chỉ là người phản bội lại chính mình cũng là lạm dụng hạnh nguyện cao cả của người xuất gia.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1431)
Từ nguyên thủy, tất cả chúng sinh đều muốn được hạnh phúc, và không muốn đau khổ.
(Xem: 2449)
Trong khi một số vị pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ - bằng cách...
(Xem: 2510)
Đợi cha mẹ già qua đời rồi mới báo hiếu làm đàn tràng cầu siêu thiệt to, mua đất nghĩa trang thiệt rộng, xây mồ xây mả thiệt đẹ
(Xem: 2625)
Phật giáo đề cao giá trị của hạnh buông xả – một trong những đức hạnh căn bản giúp con người thoát khỏi khổ đau, đạt được sự an lạctự do nội tâm.
(Xem: 3087)
Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau.
(Xem: 2563)
Phật tánhchủ đề của Kinh Đại Bát Niết Bàn và được luận giảng trong Phật tánh luận.
(Xem: 2596)
Phàm làm việc gì muốn được thành công, trước tiên đòi hỏi người ta phải siêng năng.
(Xem: 1637)
Chữ Tánh, Bản tánh, Tự tánh được nói đến trong rất nhiều kinh, luận Đại thừa. Đó cũng chính là mục đích rốt ráo cần tu chứng.
(Xem: 2546)
Trong khi một số vị Pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ – bằng cách viếng thăm các chùa và tu viện khác nhau trên khắp thế giới
(Xem: 2209)
Hãy quán niệm thật sâu. Một khi có sinh, phải có khổ. Tất cả chúng ta đều phải chịu đựng theo cách đó.
(Xem: 2902)
Khát khao là một cảm xúc tự nhiên của con người, biểu hiện qua mong muốn đạt được điều mà mình cho là quan trọng hoặc cần thiết.
(Xem: 2022)
Từ nguyên thủy, tất cả chúng sanh đều muốn được hạnh phúc, và không muốn đau khổ.
(Xem: 3217)
Vipassana và sathama là hai phương phápthiền nổi bật mang đến những trải nghiệm tâm hồn độc đáo.
(Xem: 2311)
Nguyện là lý tưởng, là mục đích, là định hướng cho cuộc hành trình.
(Xem: 3718)
Một trong những đóng góp to lớn của Hoà thượng Thích Minh Châu là sự nghiệpphiên dịch kinh điển.
(Xem: 2175)
Trong kinh Hoa nghiêm Đức Phật có dạy: “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”
(Xem: 1984)
Chúng ta có cuộc sống khác nhau trên những giai tầng xã hội, cung bậc tình cảm, cảnh giới tâm linh.
(Xem: 3084)
Khi đức Phật thành đạo dưới cội Bồ Đề, ngài đứng trước một lựa chọn trọng đại:
(Xem: 2702)
Ngày xưa, đa phần chùa ở Á Châu được xây dựng trên núi, nên vị Thầy đến đó dựng chùa gọi là Thầy Khai sơn, Trụ trì.
(Xem: 2186)
Sống trong một nền văn hóa dựa trên sợ hãi, điều đó chắc chắn ảnh hưởng đến trạng thái tâm của bạn và những quyết định bạn đưa ra.
(Xem: 3128)
Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời.
(Xem: 3016)
Khi nói đến thiền Quán là nói đến Tứ Niệm Xứ. Quán Tứ Niệm Xứthiết lập Chánh niệm trên bốn lãnh vực Thân, Thọ, Tâm, Pháp.
(Xem: 2930)
Muốn chuyển hóa cảm xúc thì chúng ta cần chuyển hóa nhận thức trước, đau khổ đơn thuần cũng chỉ là một trạng thái của tâm.
(Xem: 2046)
Bất cứ dược phẩm nào được tìm ra trong thế giới, dù nhiều và đa dạng, không có thứ nào bằng Pháp (trích từ Milindapanha).
(Xem: 2600)
Trong khi một số vị Pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ – bằng cách viếng thăm các chùa và tu viện khác nhau
(Xem: 2505)
Từ xưa đến nay, chánh ngữ vẫn là yếu tố cần thiết để khẳng định “tính người” trong mỗi cá nhân,
(Xem: 1907)
Sinh, lão, bệnh và tử: những điều này là bình thường. Sinh là bản chất bình thường của sự vật
(Xem: 2155)
Thay đổi, biến động, dịch chuyển vốn là tính chất thường hằngcủa vạn hữu: có sinh ắt có diệt.
(Xem: 2912)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi ngày chúng ta phải quyết định hàng trăm, hàng ngàn lần.
(Xem: 1675)
“Thử tại tâm trung xuất hình ư ngoại” Đó là câu nói của cổ nhân, cũng có thể nói: “ Tâm sanh tướng”.
(Xem: 2254)
Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành.
(Xem: 2631)
Người xuất gia mang trên mình một hoài bão lớn là hướng tâm đến giải thoát tự thân và giúp người khác giải thoát.
(Xem: 3428)
Đức Quán Thế Âm trở nên thân thiết trong đời sống của người dân Việt đến mức trong sâu thẳm trái tim của mỗi người...
(Xem: 2335)
Nghe nói đến người tu, tưởng chừng như người ấy làm cái gì to lớn, đội đá vá trời, dời non, lấp biển;
(Xem: 3261)
Ngũ cănngũ lực tiếng Phạn là Pancindriya và Pancabala. Indriya có nghĩa là nguồn gốc, khả năng để tất cả các thiện pháp sinh khởi.
(Xem: 3077)
Nếu người nam hay người nữ nào, hành pháp ác bất thiện, phạm giới; thân thành tựu ác hạnh; khẩu, ý thành tựu ác hạnh;
(Xem: 2416)
Tu theo Giáo môn hoặc Thiền môn, họ tuân theo lời dạy của Phật hoặc Tổ sư, bám chặt vào lời nói của Phật hay Tổ ghi chép
(Xem: 2850)
Ăn chay, không ăn thịt, là một truyền thống cao đẹp hơn ngàn năm nay ở nước ta, phù hợp một cách sâu xa với tinh thần sùng cao của Phật giáo.
(Xem: 1826)
Chuyện người tu hành bị ma quỷ nhiễu hại xưa nay không phải là hiếm. Những bậc Thánh tăng còn bị làm hại huống gì phàm tăng.
(Xem: 3217)
Khi thức dậy, điều gì là điều đầu tiên chúng ta nghĩ đến?
(Xem: 3112)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm.
(Xem: 3344)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(Xem: 2867)
Một trong những đặc điểm của đời sống xuất giadu hành. Không thường ở một nơi cố định, Tỳ-kheo có thể tùy duyên vân du giáo hóa.
(Xem: 2944)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da ThứcMạt Na Thức,) được xem là
(Xem: 3063)
Sinh già bệnh chết là bản chất của đời sống con người. Ai cũng phải trải qua tiến trình này vì có sinh ắt có diệt. Có điều việc này đến với mỗi người nhanh chậm khác nhau.
(Xem: 2539)
Những lời chỉ dạy của đức Phật có khả năng chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ bằng sự tin sâu nhân quả
(Xem: 2570)
Có người ở chùa mấy mươi năm mà không ý thức được mình đang ở đoạn đường nào trên con đường mà mình đang đi.
(Xem: 2133)
Quán Thế Âm Bồ Tát có rất nhiều nhân duyên với chúng sanh trong cõi Ta Bà này.
(Xem: 2369)
Có lẽ ai cũng cảm nhận được rằng, cuộc sống này hiếm khi yên bình mà luôn đầy ắp những biến động. Với nghịch cảnh
(Xem: 2386)
Pháp thoại dưới đây Đức Phật dùng hình ảnh gương Pháp (Pháp kính) để khi soi vào vị đệ tử Phật biết chỗ thọ sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant