Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cô bé hai mắt

14 Tháng Hai 201100:00(Xem: 6036)
Cô bé hai mắt

Ngày xưa, có một bà có ba cô con gái. Con lớn tên là Một Mắt vì
cô chỉ có độc một mắt ở giữa trán. Cô thứ hai tên là Hai Mắt vì cô có
hai mắt như mọi người khác. Cô út tên là Ba Mắt vì cô có ba mắt,
mắt thứ ba cũng ở giữa trán.
Cô Hai Mắt giống y như những người thường khác nên bị mẹ,
chị và em không chịu được.
Họ bảo cô:
- Có hai mắt thì cũng chẳng hơn gì người thường, không phải là
họ hàng nhà ta.
Họ thấy cô đâu là xua đấy, quẳng cho cô quần áo xấu xí, chỉ cho
thức ăn thừa, tìm đủ cách làm cho cô đau khổ.
Có lần cô Hai Mắt ra đồng chăn dê, đói lắm vì chị và em cho ăn
ít quá. Cô liền ngồi xuống bờ ruộng khóc lóc thảm thiết, nước mắt
tuôn ra như hai dòng suối nhỏ.
Đang than vãn, cô ngẩng lên thấy một bà đứng bên mình hỏi:
- Hai Mắt, sao con lại khóc?
Hai Mắt trả lời:
- Con không khóc sao được? Chỉ vì con có hai mắt như người
bình thường, mẹ, chị và em không chịu được, xua con từ xó này
sang xó khác, quăng cho con quần áo cũ, chỉ cho con ăn cơm thừa
canh cặn. Hôm nay ở nhà cho con ăn ít quá, con đói lắm.
Bà lão bảo:
- Hai Mắt, con hãy lau mặt đi, bà sẽ bảo con cái này để con
không bị đói nữa. Con cứ việc bảo con dê cái của con:
Này dê con, hãy be lên!
Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày!
Thì lập tức trước mắt con sẽ hiện ra một cái bàn xinh xắn, ở
trên bày các thức ăn ngon lành, con tha hồ ăn. Sau khi con ăn no
rồi, không cần đến bàn nữa, thì con chỉ việc nói:
Này dê con, hãy be be!
Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này!
Thì bàn lập tức sẽ biến mất.
Sau đó, bà lão đi. Hai Mắt nghĩ bụng: "Mình phải thử ngay
xem lời bà dặn có đúng không vì mình đói quá". Cô nói:
Này dê con, hãy be lên!
Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày!
Nói chưa dứt lời, thì có một chiếc bàn xinh xắn phủ chiếc khăn
nhỏ trắng tinh hiện ra. Trên bàn có đĩa, dao, dĩa, thìa bạc, đầy các
thức ăn tuyệt ngon còn nóng, hơi lên nghi ngút như vừa bưng ở
dưới bếp lên.
Hai Mắt ăn uống ngon lành. No nê rồi, cô lại nói như lời bà lão
dặn:
Này dê con, hãy be be!
Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này!
Lập tức chiếc bàn xinh xắn và các thứ ở trên biến mất. Hai Mắt
nghĩ bụng làm nội trợ kiểu ấy thật thú vị, cô hả hê vui thích lắm.
Buổi tối, cô chăn dê về nhà, thấy có chiếc bát sành đựng thức
ăn mà chị và em để phần cho, nhưng cô không đụng đến. Ngày hôm
sau cô lại chăn dê đi, để nguyên mấy mẩu bánh phần cô. Lần đầu
và lần thứ hai, chị và em không để ý, nhưng cứ thế mãi nên họ cũng
biết và nói:
- Con Hai Mắt có điều gì khả nghi. Không lần nào nó đụng đến
thức ăn, thế mà mọi khi để cho nó cái gì là nó chén hết sạch cơ mà.
Phải tìm cho ra đầu đuôi việc này mời được.
Khi Hai Mắt ra đi. Một Mắt đến bảo:
- Để tao đi ra đồng với, xem mày chăn dê có tốt không, mày có
chịu đưa dê đi ăn ở nơi tốt cỏ không.
Nhưng Hai Mắt đã biết được ý định của Một Mắt, cô chăn dê
đến đồng cỏ rậm và bảo:
- Chị Một Mắt ạ, chị em mình ngồi xuống rồi em hát cho chị
nghe.
Một Mắt ngồi xuống, mệt quá vì chưa quen đi đường và vì trời
nắng chang chang, còn Hai Mắt cứ hát mãi:
Một Mắt ơi, chị còn thức không?
Một Mắt ơi, chị ngủ đấy à?
Một Mắt nhắm mắt độc nhất của mình lại mà ngủ. Lúc Hai
Mắt thấy một mắt đã ngủ say, việc không thể lộ được, cô mới bảo:
Này dê con, hãy be lên!
Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày!
Cô ngồi vào chiếc bàn xinh xắn, ăn uống no nê rồi lại nói:
Này dê con, hãy be be!
Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này!
Tất cả mọi thứ đều biến ngay.
Hai Mắt liền đánh thức Một Mắt dậy mà bảo:
- Chị Một Mắt ạ, chị định đi chăn dê mà lại ngủ à? Trong khi
đó dê nó có thể chạy khắp thiên hạ mất. Thôi ta về nhà chị ơi.
Hai người về nhà. Hai Mắt để nguyên không đụng đến thức ăn.
Một Mắt không cho mẹ biết được tại sao em không chịu ăn. Nó xin
lỗi mẹ:
- Con ra đồng ngủ quên đi mất.
Hôm sau, mẹ bảo Ba Mắt:
- Lần này, mày đi cùng phải để ý xem con Hai Mắt ra ngoài có
ăn gì không, có ai mang gì đến cho nó ăn uống không, vì nhất định
là nó phải ăn uống lén lút.
Ba Mắt đến bảo Hai Mắt:
- Em muốn đi với chị để xem chị chăn dê có tốt không, chị có
đưa dê đi ăn nơi tốt cỏ không?
Nhưng Hai Mắt đỗán được ý định của Ba Mắt nên cô chăn dê
đến đồng cỏ rậm rồi bảo:
- Em Ba Mắt ạ, ta ngồi đây. Chị sẽ hát cho em nghe.
Ba Mắt ngồi xuống. Đường xa, trời nắng, nên người mệt nhoài.
Hai Mắt lại bắt đầu hát bài hát hôm trước:
Ba Mắt ơi, thức đấy ư?
Nhưng sau đáng lẽ phải hát:
Ba Mắt ơi, ngủ đấy à?
Thì cô lại đãng trí hát:
Hai Mắt ơi, ngủ đấy à?
Rồi cứ hát mãi:
Ba Mắt ơi, thức đấy ư?
Hai Mắt ơi, ngủ đấy à?
Hai con mắt của Ba Mắt nhắm lại ngủ, còn con mắt thứ ba
không bị phép của câu thần chú nên không ngủ. Thật ra thì Ba Mắt
nhắm cả mắt thứ ba, nhưng nó nhắm giả vờ làm như ngủ, nó nhấp
nháy để có thể nhìn rõ được hết mọi việc. Hai Mắt tưởng là Ba Mắt
đã ngủ say rồi, liền niệm chú:
Này dê con, hãy be lên!
Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày!
ăn uống no nê rồi bảo chiếc bàn nhỏ biến đi:
Này dê con, hãy be be!
Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này!
Ba Mắt trông thấy hết. Hai Mắt đến chỗ nó đánh thức dậy bảo:
- Úi chà. Ba Mắt em ngủ à? Thế mà cũng đòi đi chăn dê? Thôi
ta về nhà đi!
Về đến nhà, Hai Mắt lại không ăn. Ba Mắt liền mách mẹ:
- Giờ thì con biết tại sao cái con làm bộ ấy nó không ăn rồi. Ở
ngoài đồng nó nói "Này dê con, hãy be lên! Thức ăn, này hỡi bàn
xinh, hãy bày!" thì có một chiếc bàn nhỏ bày đầy thức ăn, thức uống
tuyệt ngon, ngon hơn ở nhà ta nhiều, hiện ra. Nó ăn uống no nê rồi
nó bảo: "Này dê con, hãy be be! Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến
này!" thì mọi thứ đều biến mất. Con trông thấy tất cả rõ mồn một.
Hai mắt nó niệm thần chú cho con ngủ, nhưng may còn con mắt
trên trán vẫn thức. Người mẹ đố kỵ liền kêu lên:
- A, mày lại đòi hơn chúng tao à! Phải cho mày chừa cái thói ấy
đi!
Mụ lấy dao mổ lợn, đâm trúng tim dê, dê khuỵu xuống chết.
Hai Mắt thấy vậy, buồn bã đi ra ngồi bờ ruộng khóc lóc thảm
thiết. Bà lão bỗng lại hiện ra bên cô mà bảo:
- Hai Mắt làm sao con khóc?
Cô đáp:
- Con không khóc sao được! Mẹ con đã đâm mất con dê mà
hàng ngày, khi con niệm câu thần chú của bà, nó dọn thức ăn thật
ngon cho con ra bàn. Giờ thì con lại phải chịu đói khát, khổ sở rồi.
Bà lão bảo:
- Hai Mắt ạ! Để bà bày cho con một kế hay: con hãy xin chị và
em lấy bộ lông của con dê đã bị giết, con đem chôn ở trước cửa rồi sẽ
gặp may.
Nói xong bà lão biến mất. Hai Mắt về nhà bảo chị và em:
- Chị và em yêu dấu ơi, dê ấy của tôi, cho tôi xin chút đỉnh của
nó với. Tôi chẳng dám xin gì ngon lành đâu, chỉ xin bộ lông mà thôi.
Hai đứa cười ồ lên bảo:
- Ừ, nếu chỉ xin có thế thì cứ việc mà lấy đi.
Hai Mắt lấy bộ lông, đến tối theo lời bà lão dặn lặng leo đem
chôn trước cửa nhà.
Sáng hôm sau, khi cả nhà cùng dậy ra cửa thì thấy có một cây
kỳ lạ, đẹp lộng lẫy, quả vàng xen giữa lá bạc, trần gian không có gì
đẹp bằng. Không ai biết tại sao qua một đêm, cây ở đâu mọc ra. Chỉ
có Hai Mắt biết rõ là cây ở lông dê mọc lên vì nó mọc đúng ở nơi
chôn bộ lông.
Mẹ liền bảo :
- Một Mắt, con trèo lên hái quả xuống.
Một Mắt trèo lên, nhưng cứ định hái một quả táo vàng thì cành
lại tuột khỏi tay. Mà lần nào cũng như vậy, khiến cho nó không hái
được quả nào, hái mãi cũng không được.
Mẹ liền bảo:
- Ba Mắt, con hãy trèo lên, con có ba mắt, ắt là nhìn rõ hơn Một
Mắt.
Một Mắt tụt xuống. Ba Mắt trèo lên. Nhưng Ba Mắt cũng
chẳng tài gì hơn, với mãi mà vẫn cứ bị hụt, táo vàng vẫn cứ thụt lại.
Sau bà mẹ sốt ruột, đích thân trèo cây, nhưng định hái quả thì
lại chỉ nắm không khí, chẳng hơn Một Mắt và Ba Mắt:
Hai Mắt liền bảo:
- Để tôi lên xem sao, có thể là được.
Chị và em gái nói:
- Đồ Hai Mắt thì làm được trò trống g´!
Nhưng khi Hai Mắt trèo lên, táo vàng không thụt lại, mà tự ý
rơi vào tay cô, cô hái được hết quả nọ đến quả kia, mang xuống đấy
một tạp dề. Bà mẹ giật lấy. Đáng lẽ, mụ, Một Mắt và Ba Mắt phải
đối đãi tử tế hơn với cô Hai Mắt đáng thương, thì họ lại đố kỵ thêm
vì chỉ có mình cô hái được quả vàng. Họ đối với cô càng thêm cay
nghiệt.
Một hôm, họ đang đứng bên cây thì có một hiệp sĩ trẻ tuổi đi
tới.
Cô chị và cô em gọi:
- Hai Mắt ơi, nhanh lên, trèo xuống đi kẻo chúng tao ngượng cả
mặt vì mày.
Rồi hai người vớ vội một chiếc thùng rỗng để ở ngay gốc cây úp
lên cô Hai Mắt đáng thương. Chúng lại nhét tất cả táo vàng mà cô
hái được vào trong đó. Hiệp sĩ đến nơi. Ấy là một nhà quí phái rất
đẹp. Chàng ngừng lại ngắm cây táo vàng lộng lẫy và bảo cô chị và
cô em:
- Cây đẹp này của ai? Cho ta một cánh thì muốn xin gì ta cũng
cho.
Một Mắt và Ba Mắt vội đáp là cây của chúng, chúng sẵn sàng
bẻ cho chàng một cành. Hai chị em ra sức bẻ nhưng lần nào cành và
quả cũng thụt lại.
Chàng hiệp sĩ liền bảo:
- Quái lạ, sao cây của các cô mà các cô lại không hái được?
Chúng vẫn khăng khăng nói là cây của chúng. Trong khi ấy,
Hai Mắt ở dưới thùng để mấy quả táo vàng lăn đến chân hiệp sĩ vì
nàng bực tức là Một Mắt và Ba Mắt lại không chịu nói thật. Hiệp sĩ
thấy táo, ngạc nhiên hỏi táo từ đâu đến. Một Mắt và Ba Mắt đáp
chúng còn một người chị em, không dám để cho ra mắt vì cô cũng
chỉ có hai mắt như những người thường khác. Nhưng hiệp sĩ đòi
xem mặt cô và gọi:
- Cô Hai Mắt đâu, lại đây nào!
Hai Mắt bình tĩnh chui ở dưới thùng ra. Hiệp sĩ ngạc nhiên về
sắc đẹp của cô, hỏi:
- Chắc cô Hai Mắt bẻ được cho tôi một cành chứ!
Hai Mắt đáp:
- Thưa vâng, hẳn là được, vì cây của em.
Cô trèo lên cây, nhẹ nhàng bẻ một cành có lá bạc quả vàng thật
đẹp đưa cho hiệp sĩ.
Hiệp sĩ liền bảo:
- Cô Hai Mắt ơi, tôi trả công cô thế nào đây?
Hai Mắt đáp:
- Từ sáng tinh mơ đến tối mịt, em chịu đói khát, cơ cực, buồn lo,
nếu chàng chịu mang em đi để cứu em thì em thật là sung sướng.
Hiệp sĩ liền đỡ Hai Mắt lên ngựa, mang về lâu đài cha. Tới nơi,
chàng cho cô mặc quần áo đẹp đẽ, tha hồ ăn uống. Chàng yêu cô và
lấy cô làm vợ ... Lễ cưới rất vui vẻ.
Khi chàng hiệp sĩ đẹp trai mang Hai Mắt đi rồi, chị và em lồng
lên vì thấy cô sung sướng.
Hai cô nghĩ bụng: Cây thần còn ở tay ta, dù ta không hái được
quả nào, thì mọi người vẫn cứ phải ngừng lại, ngắm cây, vào tìm ta
để khen cây. Biết đâu rồi ta chẳng gặp may.
Nhưng sáng hôm sau, cây thần bỗng biến mất, hy vọng của hai
chị em cũng tiêu tan. Khi Hai Mắt từ trong phòng nhỏ nhìn ra, cô
mừng rỡ thấy cây đã theo cô và hiện lên.
Cô Hai Mắt hưởng hạnh phúc lâu dài. Một hôm, có hai người
đàn bà nghèo khó đến lâu đài cô xin ăn. Cô Hai Mắt nhận ra chị và
em mình. Một Mắt và Ba Mắt bị sa sút, nghèo túng, phải đi tha
phương cầu thực. Cô Hai Mắt niềm nở chào hai người, đối đãi tốt
với họ, chăm sóc họ, khiến họ hối hận, vì đã từng đối xử độc ác với
cô.
Câu chuyện thật là cảm động và qua câu chuyện này các em sẽ
thấy một bài học: trong cuộc đời ai có tấm lòng nhân hậu sẽ được
hưởng hạnh phúc, kẻ độc ác, xấu xa sẽ gặp phải nhiều bất hạnh.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6980)
Vương Tường, đời Tần, mồ côi mẹ, phải sống với dì ghẻ. Bà dì ghẻ rất độc ác, tuy vậy, Vương Tường vẫn một lòng hiếu thảo.
(Xem: 12485)
"Nằm gai nếm mật" do chữ "Ngọa tân thường đảm". Đời Xuân Thu (722-479 trước D.L.), hai nước Ngô và Việt đánh nhau. Sau trận đại bại tại Cối Kê...
(Xem: 41568)
Quản Lộ tự Công Minh, vốn người ở đất Bình Nguyên đời Tam Quốc (220-264) diện mạo xấu xí, thích uống rượu. Từ bé, Lộ ham xem thiên văn...
(Xem: 6843)
Ngày xưa có một nhà vua, tuổi quá ngũ tuần rồi mà chưa được xem một quyển sách nào. Bộ sách ông thèm khát được đọc là bộ "Lịch sử loài người"...
(Xem: 8919)
Tục xưa truyền Sở Tương Vương nằm mơ thấy thần nữ trên núi Vu Sơn, hỏi ở đâu lại thì đáp rằng: "Thần nữ thường làm mây buổi sáng, làm mưa buổi chiều".
(Xem: 9072)
Ngày xưa có một người nhà quê lấy phải vợ độc ác. Người vợ này đối xử với mẹ chồng rất là hỗn láo vô lễ. Người chồng khuyên hoài không được, bèn nghĩ ra một kế.
(Xem: 9375)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
(Xem: 9286)
Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, lúc nàng Kiều bán mình chuộc tội cho cha, sắp sửa về ở cùng Mã Giám Sinh, nàng nhắn nhủ với em là Thúy Vân...
(Xem: 25240)
"Chương Đài" là tên một con đường ở thành Trường An bên Tàu. "Hỏi Liễu Chương Đài" là hỏi thăm cây liễu ở đường Chương Đài. Đây có nghĩa là hỏi thăm người tình nhân cũ...
(Xem: 10359)
Theo tục lệ Việt Nam, để hoàn tất một đám cưới, người ta phải có đủ 6 lễ, gọi là Lục Lễ: 1/ Nạp Thái: Nhà trai nhờ người đến nhà gái ướm ý...
(Xem: 110897)
Lục dục ( 六欲 ) gồm: 1. Sắc dục: ham muốn nhìn thấy sắc đẹp. 2. Thinh dục: ham muốn nghe âm thanh êm tai...
(Xem: 9303)
Vào cuối thế kỷ thứ hai, Triệu Thị Trinh (bà Triệu) cùng anh là Triệu Quốc Đạt lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của nhân dân Giao-châu chống quân Ngô. Ban đầu Triệu Quốc Đạt khuyên can...
(Xem: 8192)
Năm Tiết Đào lên tám, một hôm vào mùa thu, Tiết Đào đứng chơi bên cạnh cha, gần một cây ngô đồng. Cây đã già, cành lá sum sê đứng sừng sững trước nhà...
(Xem: 13344)
Ngụy Thù, người nước Tấn, có người vợ lẻ trẻ đẹp. Lúc Ngụy Thù gần chết, không muốn cho người vợ thuộc về người khác, bèn dặn con là Ngụy Khỏa phải chôn sống nàng...
(Xem: 7998)
Trên đồ sứ Trung Hoa, ta thường thấy vẽ 7 ông cụ già ngồi trong rừng tre, kẻ đánh cờ, gẩy đàn, người uống rượu ngâm thơ. Đó là hình ảnh của Trúc Lâm Thất Hiền...
(Xem: 18366)
Trong sách "Quần ngọc chú" có ghi lại chuyện Tỉnh Lang đi chơi chùa Nam Huệ Tự. Ở chùa, Tỉnh Lang nằm chơi một lúc đã ngủ thiếp đi không hay biết gì.
(Xem: 6327)
Trịnh Công Sơn đã nói rằng ông đặt nghệ danh cho ca sĩ Lệ Mai là Khánh Ly bởi vì ông hâm mộ hai nhân vật trong lịch sử là Khánh Kỵ và Yêu Ly.
(Xem: 5954)
Thôi Hộ, một danh sĩ đời nhà Đường (618-907), nhân dự hội Đạp Thanh đến Đào Hoa Trang, gõ cửa một nhà xin được giải khát. Một thiếu nữ đứng thập thò bên cửa...
(Xem: 9137)
Trung Quốc, đời nhà Trần, người hầu cận Thái Tử là Từ Đức Ngôn có tình với Nhạc Xương công chúa. Khi nhà Trần suy loạn, Từ bảo công chúa:- Nước mất, nàng tất lọt vào nhà quyền quý.
(Xem: 60439)
Trong "Nam Kha ký thuật" của Lý Công Tá đời nhà Đường có kể truyện Thuần Vu Phần nằm mộng thấy chàng đến nước Hòe An. Thuần được vua Hòe An cho vào bái yết.
(Xem: 6959)
Thuần Vu Phần ngày xưa rất nghèo, nằm ngủ bên gốc cây hòe, chiêm bao thấy hai sứ giả mời ông làm Phò mã,...
(Xem: 26632)
"Hoàng lương" có nghĩa là kê vàng. Ngày xưa có Lư Sinh đi thi không đỗ, vào hàng cơm nghỉ chân. Có một lão già cho mượn một cái gối nằm.
(Xem: 13655)
Thời Ngũ Đại, có một người tên là Mã Ân, tiếm ngôi vua. Mã Ân nguyên trước chỉ là một vị quan võ nhỏ, bộ hạ của quan Vũ An Tiết Độ Sứ đời Đường...
(Xem: 6859)
Dương Quý Phi (chữ Hán:楊貴妃, 719 – 756) là một cung phi của Đường Minh Hoàng. Bà được xếp vào một trong Tứ đại mĩ nhân của lịch sử Trung Quốc
(Xem: 41210)
"Ba sinh" do chữ "Tam sinh" nghĩa là ba kiếp luân chuyển: kiếp này sang kiếp khác. Duyên nợ ba sinhduyên nợ từ ba kiếp với nhau.
(Xem: 9295)
Câu thành ngữ này có nghĩa là bàn định với con cáo hoặc con hổ để lột da chúng. Nay thường dùng để ví về những việc bàn luận đều phải hy sinh lợi ích của đối phương...
(Xem: 9145)
Điển tích Tơ Hồng do chuyện ngày xưa, bên Tàu có một người tên là Vi Cố, một bữa đi chơi trăng, bắt gặp một ông già đang ngồi xe các sợi dây đỏ.
(Xem: 6514)
Chim Cuốc còn có tên là Đỗ Quyên, Tử Quy hay Đỗ Vũ. Giống chim này, đầu mỏ hơi cong, miệng to đuôi dài, lưng màu tro, bụng sắc trắng có một đường đen...
(Xem: 12066)
Chim Việt là loài chim sinh ở đất Việt, thuộc phía nam nước Tàu. Mỗi năm cứ đến buổi đầu thu, từng đàn chim Việt bay sang phương Bắc để kiếm ăn.
(Xem: 19180)
Ngày nay, mọi người đều hiểu thành ngữ này là một cách nói ngoa dụ để chỉ người đàn bà rất đẹp, giống như cách hiểu thành ngữ "hoa hờn nguyệt thẹn"...
(Xem: 10361)
"Chắp cánh, liền cành" tức là "Chim chắp cánh, cây liền cành". Sách Nhĩ Nhã chép: Chim Kiêm giống chim le le, lông màu xanh, chỉ có một cánh và một mắt, thường ở phương Nam.
(Xem: 41625)
Hợp Phố xưa thuộc tỉnh Giao Châu, nay là Quảng Đông. Vào thời Bắc thuộc, miền bể ấy có rất nhiều ngọc châu (ngọc trai).
(Xem: 13102)
Tục truyền rằng đời xưa có một loại người gọi là Giao Nhân, ở dưới biển Nam Hải lên buôn bán với con người. Đến cuối năm thì họ phải trở về Thủy Cung.
(Xem: 14112)
Đời Hậu Hán (25-219), ở đất Giang Nam có một chàng hàn sĩ tên Lương Hồng. Nhà nghèo, Lương Hồng ở trong túp lều tranh vách đất. Họ Lương chăm học biết trọng liêm sỉ,...
(Xem: 11724)
Đời Tam Quốc (220-264), Tào Thực tự Tử Kiến là con thứ ba của Tào Tháo, vốn có tài làm thơ hay, được tiếng là đệ nhất thi nhân đời Tần-Hán nhưng có tính phóng túng.
(Xem: 9714)
Tục truyền có chàng thợ săn tên Dã Tràng, một ngày kia nhìn thấy một cặp rắn. Khi con rắn cái lột da thì rắn đực đi tìm đồ ăn mang về cho.
(Xem: 8039)
Một đêm nọ, sư cụ nằm mộng thấy một người đàn bà dắt năm đứa con nhỏ đến trước mặt mình rồi vái lấy vái để, miệng nói: "Xin cứu mạng! Xin cứu mạng!". Sư hỏi người đàn bà...
(Xem: 9447)
Cuối đời nhà Thương (1783-1154 trước D.L.) vua Trụ hoang dâm vô đạo, tàn hại lê dân, người người oán giận. Văn Vương là Cơ Xương, vốn là một chư hầu của nhà Thương, nhân từ đức hạnh...
(Xem: 7773)
"Bi Ca Tán Sở" là một bài hát do Trương Lương đặt ra cho hòa theo tiếng tiêu thổi để làm tan rã quân đội Sở Bá Vương Hạng Võ. Trương Lương tự Tử Phòng, người nước Hán...
(Xem: 19772)
Đời nhà Tống, ở vùng Vũ Khang thuộc Ngô Quận, có 1 người tên là Trầm Khánh Chi, từ nhỏ đã ôm chí lớn, lại có sức mạnh và giỏi về bài binh bố trận.
(Xem: 10543)
Đời nhà Tống, ở vùng Vũ Khang thuộc Ngô Quận, có 1 người tên là Trầm Khánh Chi, từ nhỏ đã ôm chí lớn, lại có sức mạnh và giỏi về bài binh bố trận.
(Xem: 7823)
Lời lẽ và ý tứ hai câu vốn mượn ý và lời ở hai câu liền nhau trong bài "Hàm đan thiếu niên hành" của Cao Tứ đời Đường: Vị tri can đảm hướng thùy thị, Linh nhân khước ức Bình Nguyên Quân.
(Xem: 49557)
Những thay đổi lớn trong cuộc đời, trong xã hội, thường được người Việt ví với "bãi bể nương dâu". Thí dụ: Phút giây bãi bể nương dâu, Cuộc đời là thế biết hầu nài sao. (Lê Ngọc Hân - Ai tư vãn)
(Xem: 16676)
Bát Trân ý nói là những món ăn ngon. Ngày xưa, có 8 món ăn được liệt vào hạng ngon nhất, nấu công phu và rất bổ dưỡng, chỉ có vua chúa mới có dịp ăn, ấy là...
(Xem: 17048)
Bá Nha đời Xuân Thu là một người có tài đàn. Chung Tử Kỳ là người biết thưởng thức âm nhạc. Khi Bá Nha ngồi gảy đàn, bụng nghĩ đến núi, thì Chung Tử Kỳ khen: "Tiếng đàn chót vót như núi cao".
(Xem: 23042)
Trong thời Pháp thuộc, có một bọn người chuyên tổ chức những "trò chơi có thưởng". Trò chơi của bọn họ gồm một cái que và ba chiếc lá. Mỗi lá có đính một chiếc vòng nhỏ ở cuống.
(Xem: 18105)
Nguyên Sở Hạng Võ chiếm đất Quang Trung là đất hưng vương, núi non hiểm trở; còn Hán Lưu Bang vì thế lực yếu nên phải bị đày vào đất Bao Trung.
(Xem: 29755)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant