Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

14. Tổ Long Thụ

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 11078)
14. Tổ Long Thụ

TRIẾT LÝ NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

V. Chư Tổ sư Tây Thiên

 14.

TỔ LONG THỤ

龍樹祖

Là vị Tổ sư thứ mười bốn, ngài ra đời vào thế kỉ thứ hai Dương lịch. Tiểu sử của ngài có lắm chuyện kỳ lạ, trong đó có nhiều phần thật, mà cũng có lắm sự khó tin. Nhưng người ta biết chắc rằng ngài sanh tại xứ Bérar, thuộc dòng tộc Bà-la-môn, và ngài hưởng thọ được chừng sáu mươi tuổi.

Ngài soạn nhiều sách, nhưng đã thất lạc đi rất nhiều, không thể nào tìm lại đủ.

Tác phẩm của ngài được dịch sang chữ Hán rất nhiều. Tên tuổi ngài nổi bật trong lịch sử văn chương Phật giáo. Tương truyền chính ngài đã soạn cuốn “Di-lan-đà vấn đạo” hay còn gọi là kinh Na-tiên Tỳ-kheo, là một quyển kinh rất có giá trị. Nhưng một số người khác không đồng ý, cho rằng kinh ấy xuất hiện về sau nên không thể do ngài trước tác được.

Ngài là người sáng lập ra phái Trung luận, một trong các học phái quan trọng của Đại thừa. Đệ tử của ngài rất đông, đều giỏi lý thuyết cao siêu.

Trong những cuộc thuyết pháp của ngài, người nghe phần đông là những người Bà-la-môn học rộng, và vua cũng về phái Bà-la-môn. Ngài luận thuyết rất cao siêu và đánh đổ được hết những kẻ muốn chống lại giáo lý Phật đà. Học phái Trung luận của ngài lấy thuyết Không làm điểm cốt lõi để phát triển luận thuyết.

Những đoạn mà chúng tôi trích dịch sau đây đều là trước tác của ngài Long Thụ.





QUẢ VỊ BỒ TÁT



Đức tánh cốt yếu của chư Bồ-tát là lòng từ ái tràn đầy và lên đến cực điểm. Các ngài thương tất cả chúng sanh, vạn vật. Bởi vậy cho nên không muốn riêng hưởng cảnh Niết-bàn. Dù tâm trí các ngài đã được an hòa, thanh tịnh, nhưng các ngài vẫn vì tình thương mà làm những việc lành, không phải bởi tham hưởng quả tốt về sau. Tuy thế, công đức của các ngài tự nhiên giúp cho các ngài được an nhiên, tự tại.

Phẩm vị của các ngài cao hơn phẩm vị của hàng Thanh văn La-hán. Các ngài đi đến đâu cũng đều cứu vớt cho chúng sanh, không muốn để họ còn chịu khổ não khi mình đã đi qua rồi. Các ngài làm việc xuất phát từ tâm đại từ đại bi, hướng đến quả Phật Như Lai.

Các ngài cũng lấy lòng thương mà nhìn xuống chúng sanh đang chịu hành khổ dưới địa ngục A-tỳ, vì họ đã làm những việc gian ác. Chính địa ngục là một cõi vô cùng vô tận, mà lại ở đó, sự khổ cũng là vô số tùy theo các nghiệp ác của chúng sanh chiêu cảm lấy. Bồ-tát là đấng đại từ đại bi, thấy chúng sanh chịu khổ, lấy làm thương xót và muốn chịu khổ thay cho họ.

Nhưng các ngài đã chứng đắc được chân lý này: những sự khổ não hành hạ người ta, một phần là không có thật, chỉ như bào ảnh, mộng ảo vậy thôi, và một phần là có thật. Các ngài cũng biết rằng những bậc thấu rõ lý Không của vạn vật đều biết được rằng tại sao nghiệp quả khi thì như thế này, có khi lại như thế khác.

Bởi thế cho nên muốn cứu độ chúng sanh khỏi mọi cảnh khổ, chư Bồ-tát luôn dùng hết sức lực và tinh thần, dấn mình vào vòng sanh tử. Tuy các ngài tự nguyện đi vào cõi luân hồi, mà lòng các ngài không hề uế trược vì tội lỗi, và cũng không có những hệ lụy chốn trần tục. Các ngài như hoa sen trong sạch, tuy mọc trong đám bùn mà không vấy bùn.

Trong khi tu tập dần lên cho đến địa vị toàn giác, các ngài luôn lấy lòng đại từ đại bicứu độ, không muốn để còn có một chúng sanh nào phải chịu khổ nảo. Các ngài luôn quán sát vạn vật chỉ là hư không, song việc làm của các Ngài vẫn là ở trong cảnh trần ác lụy, khổ nguy, đặng tế độ cho chúng sanh vậy.



THƯ KHUYẾN THIỆN



Đây là một bức thơ mà ngài Long Thụ dâng lên vua, vì vua là người mộ đạo, thường gần gủinghe lời khuyến thiện của ngài. Bởi thấy vua hâm mộ đạo đức và triết lý, nên đại đức vui lòng đem chân lý mà giải bày với vua.



“Nên giữ thân thể, lời nói và tâm ý theo Mười điều lành. Không nên uống rượu say. Hãy dùng phương thế chân thật mà sống đời.

Nên hiểu rằng tiền của tan rã và mau đổi dời. Tốt hơn là nên bố thí cho kẻ nghèo, cứu giúp bè bạn khi khó khăn và cúng dường cho những bậc tu hành. Không có gì quí bằng nhân đức. Lòng nhân là bạn quí của mình, nó trợ tiếp mình trong những đời sau.

Nên trân trọng lấy sự tinh khiết. Không nên tự bôi nhọ mình, tự làm xấu lấy mình bằng những hành động thô bỉ, đê hèn. Tinh khiết ở tâm ý là nền tảng các đức tánh, cũng như đất là nền tảng chịu lấy tất cả động vậtthực vật.

Nên giữ lấy nhân đức, tinh khiết, bền chí, sốt sắng, nghiêm trang, giữ cho được vô cùng, vô tận. Và nếu có đạo đức làm cho mình mạnh thêm, tiếp giúp với mình thì mình có thể lướt qua biển trầm luân để mau thành quả Phật.

Phải kính trọng cha mẹ, bằng hữu hiền lành và thầy dạy mình. Biết kính trọng người làm cho mình có được thanh danh và làm cho mình được hạnh phúc đời sau.

Không nên nói hành, đánh đập, trộm cắp, láo xược, phạm đều nhơ nhuốc, say sưa, ham ăn trái giờ, ham ngủ chỗ nệm cao mền ấm, hát xướng ca múa và lòe loẹt se sua.

Nếu được như vậy thì có thể bước theo đúng đường của chư vị La-hán, được dự phần vào cõi thánh, và nên dùng những lời khuyên ấy mà truyền dạy cho thiện nam tín nữ.

Nên coi là giặc nghịch những tánh bỏn sẻn, gian trá, tham lam, cộc cằn, ghét ganh, giận dữ, tự cao tự đại vì giai cấp, của tiền, tuổi trẻ và sự thông hiểu. Nên coi quyền cao là giặc nghịch.

Những ai trước đã phóng đãng chơi bời và tham ác, nhưng sau tự thấy mình sai lầm liền sửa đổi tánh tình, sẽ được tốt đẹp như mặt trăng không còn bị mây che phủ.

Không có khổ hạnh nào hơn sự kiên nhẫn. Vậy không nên để sự giận dữ thắng được mình.

Nếu mình nghĩ rằng: “Những kẻ chửi mắng, rầy rà, ăn xén của mình làm cho mình nghèo hèn.” Nghĩ như vậy sẽ sanh ra oán giận. Vậy mình nên sớm từ bỏ những điều so đo ấy và nghỉ ngơi cho yên tĩnh.

Nên biết rằng những hình ảnh lộ trên tâm trí giống như nước, đất hoặc kho tàng. Khi những tình dục làm xao xuyến tâm thức, thì ta cho chúng nó giống như nước. Còn tư tưởng chân thật thì ta coi giống như kho tàng.

Có ba thứ lời nói: Lời ngọt ngào, lời chân thật và lời xảo trá. Loại đầu tiên giống như mật. Loại thứ hai giống như hoa. Và loại cuối cùng như những thứ đồ dơ nhớp. Nên tránh xa và từ bỏ loại này.

Trong nhân loại, có những người khởi đầu từ chỗ sáng đi đến chỗ sáng. Có kẻ lại từ chỗ tối đi đến chỗ tối. Cũng có người từ chỗ sáng đi đến chỗ tối. Và lại có người từ chỗ tối đi đến chỗ sáng. Nên học theo những người luôn vươn đến chỗ sáng vậy.

Nên hiểu rằng con người như trái xoài. Người thì có vẻ như chín mà không chín. Có kẻ giống như chín mà lại không chín. Có kẻ không chín mà dường như muốn chín. Và có kẻ chín, nhìn có thể biết là chín. Phải khéo biết rõ mà phân biệt.”



PHÓ PHÁP VÀ TRUYỀN KỆ



Long Thụ Bồ-tát giáo hóa đạo pháp rất thạnh. Nghe ngài giảng thuyết Chánh pháp, rất nhiều người đốn ngộ pháp vô sanh. Nhiều người khác phát nguyện xuất gia để cầu giải thoát.

Về sau, ngài gọi đệ tử lớn là Ca-na-đề-bà đến dạy rằng: “Nay ta đem Chánh pháp nhãn tạng của Như Laiphó chúc cho ngươi. Vậy ngươi hãy khéo hộ trì.” Và ngài đọc bài kệ rằng:



Vị minh ẩn hiển pháp,

Phương thuyết giải thoát lý.

Ư pháp tâm bất chứng,

Vô sân diệc vô hỷ.

爲明隱顯法

方說解脫理

於法心不證

無瞋亦無喜。



Dịch nghĩa

Muốn rõ pháp ẩn hiện,

Nên nói lý giải thoát.

Tâm không chứng đắc pháp,

Không giận cũng không vui.



Tổ Ca-na-đề-bà

迦那提婆祖

Sau khi ngài Long Thọ tịch, vị Tổ sư nối tiếp là Ca-na-đề-bà, hay Bồ-tát Đề-bà, làm Tổ sư thứ mười lăm.

Ngài là người miền Nam Ấn Độ, họ Tỳ-xá-la, thuộc dòng tộc Bà-la-môn. Thuở nhỏ, ngài đã rất thông minh và giỏi biện luận, lại hay làm việc phước thiện. Truyện kể lại rằng, có một lần ngài đến viếng đền thờ thần Đại Tự tại Thiên, nhìn thấy tượng thần nghiêm sức đầy những vàng ngọc, châu báu, ngài liền quở trách rằng: “Thần linh là những vị dùng linh khí để nhiếp phục người. Nay ngươi lại nghiêm sức thân mình bằng những thứ châu báu quý giá như thế, làm sao không hao tốn nhiều tiền của trong dân? Thật đáng trách lắm.”

Mấy hôm sau, ngài trở vào đền thờ ấy, thấy hình tượng của thần dường như tiều tụy, đổi khác, con mắt trái trủng sâu vào. Ngài thương cảm, liền nói: “Thần linh không nên để thân thể khiếm khuyết như thế, để ta cho ngươi con mắt trái vậy.”

Vừa nói, ngài vừa tự tay móc con mắt bên trái của mình mà cho thần. Nhưng ngài vừa móc ra thì lại sanh một con mắt khác, hoàn y như cũ. Liền đó, trên không trung nghe có tiếng ca ngợi rằng: “Đại bồ-tát! Đáng phục thay tâm bố thí của ngài.”

Khi Bồ-tát Long Thụ đi giáo hóa đến miền Nam Ấn Độ, ngài tự mình tìm đến ra mắt, cầu được xuất gia theo làm đệ tử và được Tổ sư thâu nhận.

Bồ-tát Đề-bà đem tài biện luận của mình mà xiển dương Chánh pháp, khuất phục hết thảy hàng trí giả ngoại đạo, cứu độ cho rất nhiều người. Về sau ngài có soạn bộ Bách luận, nói rộng thêm học thuyết Trung đạo của thầy mình. Nhân bộ luận ấy, về sau người ta xem ngài là người sáng lập ra Tam luận tông.

Theo Kế Đăng Lục, quyển nhất, Tổ Ca-na-đề-bà đi hóa đạo đến xứ Ca-tỳ-la có gặp một vị trưởng giả tên là Phạm-ma Tịnh-đức. Ông này rất giàu có, có hai người con trai là La-hầu-la-điểm và La-hầu-la-đa. Trong vườn ông trưởng giả này có một thân cây sanh ra một loại nấm lạ, ăn rất ngon. Nhưng kỳ dị một điều là chỉ có riêng ông với người con thứ là La-hầu-la-đa mới có thể nhìn thấy và ăn được loại nấm ấy, còn tất cả những người khác không ai nhìn thấy cả.

Trong nhiều năm, ông Tịnh-đức và người con thứ của ông ôm ấp thắc mắc về loại nấm lạ ấy, tìm hỏi rất nhiều người mà không ai có thể giải thích được. Người con thứ là La-hầu-la-đa có làm bài kệ rằng:

Thử mộc sanh kỳ nhĩ,

Ngã thực bất khô khao.

Trí giả giải thử nhân,

Ngã hồi hướng Phật đạo.

此木生奇耳

我食不枯犒

智者觧此因

我迴向佛道。

Dịch nghĩa

Cây sanh ra nấm lạ,

Ăn hoài vẫn không hết.

Bậc trí nói rõ được,

Ta theo về Phật đạo.



Ấy là lời báo trước nhân duyên xuất gia của người con này vậy.

Khi Tổ Ca-na Đề-bà đi hóa đạo đến nơi ấy, ông trưởng giả Tịnh-đức liền cùng với người con thứ tìm đến ra mắt, lễ bái cúng dường. Sau, ông mới đem câu chuyện nấm lạ mà thưa hỏi. Tổ thấu rõ nhân duyên việc ấy, liền nói cho ông Tịnh-đức biết như sau:

“Ngày trước, khi còn trẻ ngươi thường thỉnh một vị tỳ-kheo về nhà mà cúng dường. Tỳ-kheo ấy tuy cũng có phần giới hạnh, nhưng quả thật chưa tỏ ngộ được đạo lý. Thế mà thọ nhận sự cúng dường trọng hậu của ngươi, thành ra một món nợ. Nay vị ấy đã thác, phải sanh làm loại nấm kia để trả nợ cho ngươi. Lại nữa, khi ngươi cúng dường cho tỳ-kheo ấy, người trong nhà không ai tán đồng, tùy hỷ, chỉ có riêng người và người con thứ phát tâm cung kính, đem lòng thànhcúng dường thôi. Vì nhân duyên ấy, ngày nay chỉ có riêng ngươi và đứa con ấy được ăn loại nấm này.”

Tổ sư lại hỏi: “Ngươi năm nay bao nhiêu tuổi?”

Đáp: “Đệ tử 79 tuổi.”

Tổ sư đọc kệ rằng:



Nhập đạo bất thông lý,

Phục thân hoàn tín thí.

Nhữ niên bát thập nhất,

Thử thụ diệc vô nhĩ.

入道不通理

復身還信施

汝年八十一

此樹亦無耳。

Dịch nghĩa

Tu hành không rõ lý,

Thác sanh trả nợ người.

Năm ngươi tám mốt tuổi,

Cây ấy không còn nấm.



Ông trưởng giả Tịnh-đức nhớ lại sự việc quả có đúng như lời Tổ sư nói, hết sức kính phục, quỳ lạy thưa rằng:

“Con nay tuổi già sức yếu, tiếc rằng không thể theo phụng sự thầy. Nay đứa con thứ của con, chí ý mộ việc tu hành từ nhỏ, xin cho được theo làm thị giả cho thầy.”

Tổ sư liền quay sang hỏi người con thứ rằng: “Ngươi tên là gì?” Đáp: “Con tên La-hầu-la-đa.”

Tổ sư vui mừng nói; “Quả đúng như lời Thế Tôn xưa kia đã nói. Ngươi xuất gia sẽ mau chứng đạo.”

Tổ liền nhận cho xuất gia, truyền giới cụ túc cho La-hầu-đa-la.

Về sau, La-hầu-la-đa trở thành đệ tử lớn nhất của Tổ sư, được ngài truyền cho làm Tổ sư thứ mười sáu. Khi truyền pháp, ngài có bài kệ rằng:



Bổn đối truyền pháp nhân,

Vị thuyết giải thoát lý;

Ư pháp thật vô chứng,

Vô chung diệc vô thủy.

本對傳法人 

為說解脫理

於法實無證 

無終亦無始。

Dịch nghĩa

Trước khi truyền pháp cho ai,

Hãy đem giải thoát đề tài giảng sâu.

Thật mình không chứng pháp đâu,

Không chung không thủy, đuôi đầu vốn không.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17496)
Trời tu viện rộng và đẹp, sáng nay mây ngoài biển đã kéo vào chưa? Thôi, xin mời thầy hãy vào cốc Trăng Lên, nhóm lửa và thêm chút củi vào cho ấm... Nguyễn Duy Nhiên
(Xem: 46610)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 9682)
Ghi chép lại những bài giảng của Chư Tôn Đức cho các Huynh trưởng và Đoàn sinh GĐPTVN... Tâm Minh Vương Thúy Nga
(Xem: 8863)
“Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt, Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”... Thích Chân Tính
(Xem: 16001)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15635)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18412)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9690)
Mỗi trang sách là một lời nhắn nhủ, ta như đang nghe giọng nói nhẹ nhàng, dí dỏm của Thầy: Các bạn cứ nhìn lại xem, tình thươngtuệ giác của Bụt ở ngay trong lòng của bạn.
(Xem: 9778)
Tập truyện Thường Ðề Bồ Tát (Bồ Tát Hay Khóc) được trích dịch trong cuốn “Vô Thanh Thoại Tập” của Pháp sư Long Căn... TT Thích Chân Tính biên dịch
(Xem: 18585)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 15775)
Khánh Hòa là xứ Trầm Hương, Non cao biển rộng người thương đi về... Quách Tấn
(Xem: 11052)
Bản thảo của tập tiểu luận này đã được viết xong từ mùa hè năm 1974, nhưng chưa kịp in thì biến cố 30.4.1975 xảy ra... Hạnh Cơ
(Xem: 9036)
Kinh ThiKinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông... Tuệ Sỹ
(Xem: 10545)
Hương Vị Của Đất - Văn Lang Dị Sử - HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 10305)
Tập sách “Hồ Sơ Mật 1963 - Từ các nguồn Tài liệu của Chính phủ Mỹ”... Nhóm Thiện Pháp thực hiện, Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications 2013
(Xem: 9460)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không... Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 11620)
Hương Lúa Chùa Quê là tập sách Hoài Niệm về Tuổi Thơ của hai anh em là HT Thích Bảo Lạc ở Úc Châu và HT Thích Như Điển ở Âu Châu
(Xem: 10175)
Hoà Thượng vào bậc Cao Tăng nổi tiếng hiện nay rằng: “Được học và hành theo Phật pháp là một sự hưởng thụ tối cao nhất trong tất cả mọi sự hưởng thụ trên thế gian…” Quảng Huy
(Xem: 23148)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 9665)
Đạo Phật thường nói về nhân quả, luân hồi, tái sanh nhưng lại bác bỏ khái niệm linh hồn của các tôn giáo hữu thần. Vậy thì cái gì tái sanh luân hồi để lãnh lấy nhân quả... Alexander Berzin; Tuệ Uyển
(Xem: 17351)
Tuyển tập những bài viết cho mẹ, cụ bà Nguyễn Thị Sáu của Hư Thân Huỳnh Trung Chánh
(Xem: 16751)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 19220)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 10257)
Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này.
(Xem: 19502)
Lão tửtriết gia đầu tiên của Trung Quốc luận về vũ trụ, có một quan niệm tiến bộ, vô thần về bản nguyên của vũ trụ mà ông gọi là Đạo... Nguyễn Hiến Lê dịch
(Xem: 9521)
Trên căn bản của thực tại, hạnh phúc bao giờ cũng cưu mang trong chính nó một sức sống tràn đầy sinh lực của cảm xúc an bình được sinh khởi từ bản thể của nội tâm... Khải Thiên
(Xem: 12373)
Quyển Liễu Phàm Tứ Huấn là sách khuyến dạy tu thiện, giúp xây dựng lại và củng cố nền tảng căn bản làm người: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí ,Tín... Ấn Quang Đại Sư; Tuệ Châu Bùi Dư Long dịch
(Xem: 12088)
CUỐN TỰ ĐIỂN HÁN - VIỆT THẾ KỶ 19; Việt Nam thời xưa có các sách khải mông hay tự biểu được dùng để dạy chữ Hán cho trẻ đồng ấu... Nguyễn Đình Hòa - Trần Trọng Dương dịch
(Xem: 19984)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 12782)
Hạnh Phúc Là Điều Có Thật - Tác giả Nguyễn Minh Tiến (Nguyên Minh)
(Xem: 13215)
Sống Một Đời Vui - The Joy Of Living; Nguyên tác Yongey Mingyur Rinpoche, Diệu Hạnh Giao Trinh & Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 14488)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32527)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 13149)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12059)
Từ Chánh Niệm Đến Giác Ngộ là cẩm nang của người tu Thiền. Nguyên tác Mindfulness, Bliss and Beyond của Ajahn Brahm; Nguyên Nhật Trần Như Mai dịch
(Xem: 21028)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 40722)
Theo đạo Phật, luật nhân quả không chỉ giới hạn trong một đời sống hiện tại này, mà là một quy luật chi phối trong suốt dòng thời gian...
(Xem: 10186)
Những Chuyện Nhân Quả - Nguyên tác: Thích Hải Đảo, Đạo Quang dịch
(Xem: 9628)
Chú Tiểu Ngắm Sen là tuyển tập các truyện ngắn của tác giả Ngô Khắc Tài
(Xem: 19082)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
(Xem: 8948)
Chánh Niệm - Bhante Henepola Gunaratana; Mindfulness in Plain English; Lương Thanh Bình dịch
(Xem: 8404)
Tập truyện dài 2 tập của Vĩnh Hảo - CHIÊU HÀ xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1997
(Xem: 10560)
Đức Phật đến trong cuộc đời là một con người bằng xương bằng thịt, vui những nỗi vui của trần gian, đau những nỗi đau của con người. Để từ đó Ngài vươn lên và vực dậy giấc trường mộng Nam Kha... HT Thích Nhật Quang
(Xem: 11789)
Lược Sử Phật GiáoHồi Giáo Tại Afghanistan - Nguyên tác: Alexander Berzin, Người dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 30766)
Sự khai triển của Phật giáo Đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 11596)
Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại Sưu Khảo gồm có 2 tập do Chư Tôn Đức Tăng Ni và Chư vị thân hào nhân sỹ Phật giáo góp bài để tập thành... Nhiều Tác Giả
(Xem: 10526)
Mở Rộng Cửa Tâm Mình và những mẫu chuyện Phật Giáo nói về Hạnh phúc, Opening The Door Of Your Heart and other Buddhist Tales of Happiness, Nguyên tác: Ajahn Brahm; Chơn Quán Trần Ngọc Lợi dịch
(Xem: 16187)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 25821)
“Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng” là tên của một quyển sách, do thầy Phạm Công Thiện đặt cho. Bây giờ Thầy đã lên tới đỉnh cao, bỏ lại sau lưng là hố thẳm... Nguyên Siêu
(Xem: 10116)
Đây là câu chuyện được phóng tác từ nhân vật Phật giáo có thật trong lịch sử cận đại, thời nhà Nguyễn gầy dựng đế nghiệp ở kinh đô Huế từ nửa đầu thập niêm 80 của thế kỷ 18.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant