Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Vị danh y

25 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9560)
6. Vị danh y

CHUYỆN PHẬT ĐỜI XƯA
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

VỊ DANH Y

Vào thời đức Phật đang ở tại tinh xá trong khu vườn Trúc Lâm gần thành Vương Xá, thì thành Tỳ-xá-ly cũng là một xứ sở nổi danh về sự giàu sang, sung túc. Cả hai thành đều không kém gì nhau, nên vua chúa đôi bên đều tranh đua, ai cũng muốn làm cho xứ sở của mình ngày càng tốt đẹp hơn. Thành Tỳ-xa-ly khi ấy có được 7.707 đền đài, 7.707 ngôi tháp, 7.707 vườn hoa, 7.707 cái hồ, và có được bảo bối quý giá danh tiếng hơn hết là một đoá hoa khôi tên là Am-ra-bát-ly-ca (mraplik). Cô này là một mỹ nhân nhiều tài nghệ, rất xinh đẹptinh thông âm nhạc.

Một hôm, có ông nhà giàu bên thành Vương Xá sang thành Tỳ-xá-ly có việc, được gặp cô hoa khôi Am-ra-bát-ly-ca. Khi trở về, ông đến tâu với vua rằng: “Thành Tỳ-xá-ly có một cô kỹ nữ nổi danh tài sắc, mà xứ ta lại chẳng có cô nào để sánh bằng thì thật là thua kém, đáng xấu hổ lắm.” Vua nghe lời ông liền truyền lệnh tuyển chọn kỹ nữ. Vua lại hỏi ông nhà giàu ấy rằng: “Khanh có biết là trong thành này có con gái nhà ai đủ tài sắc để trở thành hoa khôi chăng?” Lúc ấy, trong thành Vương Xá có nàng Xát-la-hoa-ty (Slavati) rất xinh đẹp mặn mà. Ông nhà giàu liền tiến cử cô ấy. Thật ông ta có mắt tinh đời. Chẳng bao lâu, cô Xát-la-hoa-ty được học tập xong các môn kỹ nhạc, bèn nổi danh khắp nơi, lại còn xuất sắc hơn cả cô Am-ra-bát-ly-ca bên Tỳ-xá-ly. Tiền khách thưởng cho cô cũng nhiều hơn, như cô kia mỗi đêm hầu rượu đánh đàn được thưởng năm chục đồng vàng, thì cô này lại được đến những một trăm đồng vàng.

Được ít lâu, cô Xát-la-hoa-ty có thai. Vì muốn giữ kín nhẹm chuyện này, để khách làng chơi không chán bỏ mình, cô liền giả vờ đau nặng và dặn người giữ cửa không cho khách vào nhà. Đúng ngày tháng, cô sanh ra được một bé trai. Cô bảo con hầu gái đặt đứa nhỏ trong một cái rổ, bưng đi xa và bỏ ở một chỗ đất hoang.

Tình cờ, hoàng thái tử đi ngang qua đó. Ngài nhìn thấy một bầy quạ bay quanh phía trên đứa bé, liền sai quân hầu đến xem có vật gì ở đó làm cho bầy quạ tụ lại. Quân hầu đến xem về đáp: “Có một đứa trẻ mới sinh.” Ngài hỏi: “Nó còn sống hay không?” Quân hầu tâu rằng: “Còn sống.” Thái tử truyền đem đứa nhỏ về cung nuôi nấng. Nhờ vậy mà nó được sống sót. Người ta mới đặt tên cho nó là Sĩ-hoa-ca (Jivaka), có nghĩa là “còn sống hay không”.

Đứa nhỏ rất chóng lớn và rất thông minh lanh lợi. Một hôm, nó đi tìm cha nuôi nó là ông hoàng tử để hỏi về cha mẹ ruột của mình. Ông hoàng đáp: “Ta không biết cha mẹ của ngươi. Nhưng ta đã nuôi ngươi, thì ta là cha ngươi vậy.”

Bấy giờ, chàng Sĩ-hoa-ca lớn khôn, định kiếm nghề làm ăn. Chàng mới lén ông hoàng mà đi đến thành Đắc-xoa-thi-la (Takshacil), học nghề thuốc với một cụ danh y. Chàng vào học, nhờ có thiên tư, lại hết sức chuyên cần, nên tiến bộ rất nhanh. Học đến bảy năm trời nhưng thầy vẫn chưa cho ra nghề. Chàng thối chí, một hôm mới thưa hỏi thầy rằng đến bao giờ mới có thể học xong nghề thuốc. Vị thầy không trả lời ngay, hỏi lại rằng: “Thầy muốn sai con một việc, con có vui lòng làm chăng?” Chàng đáp: “Con xin vâng lời thầy.”

Ông thầy nói: “Này, con hãy đi khắp trong xứ này, tìm xem có loại cây nào không làm thuốc được thì bứng mang về đây cho thầy.” Chàng Sĩ-hoa-ca vâng lời, đi khắp các nơi mà không thấy cây nào không làm thuốc được, liền trở về thuật lại với thầy. Bấy giờ, ông thầy mới nói: “Được, vậy là con đã học xong nghề thuốc rồi đó. Con có thể dùng nó mà làm kế sinh nhai.” Rồi thầy cấp cho chàng lương thực đi đường và cho phép chàng ra đi.

Sĩ-hoa-ca trở lại thành Vương Xá. Đường xa, đi lâu, lương thực vừa cạn hết thì chàng vừa đến xứ Xát-cơ-ta. Bỗng gặp một dịp may để chàng ra tay mà thử nghề thuốc của mình. Trong thành ấy có người vợ của một đại thương gia đau bệnh nhức đầu đã bảy năm trời, uống đủ thuốc của các nhà danh y khắp nơi mà bệnh không thuyên giảm. Chàng nghe biết việc ấy, liền đi thẳng đến nhà ông đại thương gia ấy, bảo người giữ cửa vào tin cho bà chủ hay rằng có một vị lương y muốn vào trị bệnh cho bà. Người giữ cửa vào bẩm báo, bà chủ hỏi: “Thầy ấy trông như thế nào?” Người giữ cửa thưa: “Thầy ấy còn trẻ lắm.” Bà chủ liền nói: “Ta không muốn tiếp người ấy đâu. Những thầy thuốc còn nhỏ tuổi thì làm được trò trống gì? Đã có biết bao vị lương y danh tiếng, nhận của ta biết bao nhiêu tiền vàng mà còn không thể trị lành bệnh ta, huống hồ là một thầy thuốc bé con?”

Người giữ cửa đem mấy lời ấy mà thuật lại với Sĩ-hoa-ca. Chàng không thối chí, bảo người giữ cửa rằng: “Anh trở vào thưa rằng, cứ để tôi hốt thuốc. Nếu bệnh không thuyên giảm thì tôi không lấy một đồng tiền nào cả.”

Người giữ cửa vào thưa lại với bà chủ. Bà chủ bằng lòng cho phép chàng vào. Chàng xem mạch xong, thấy rõ căn bệnh, bèn bảo người đem cho mình một chút bơ. Bà chủ sai đem ra, chàng hoà với nhiều thứ thuốc thảo mộc và đưa cho bà chủ uống.

Khi ấy, thấy bơ tràn ra ngoài, bà chủ liền gọi đứa tớ gái lấy đồ ra mà hứng lấy. Chàng thấy vậy thì tự nhủ rằng: “Bà này thật là hà tiện quá lắm, cho đến một chút bơ mà cũng bảo người hứng lấy không bỏ mất. Như thế này thì e rằng bà trả công cho mình chẳng được bao nhiêu.”

Bà chủ thoáng thấy nét mặt chàng lộ vẻ buồn nên hỏi, chàng liền nói thật ý nghĩ của mình. Bà chủ cười nói: “Không phải vậy, chúng tôi là người nội trợ, không quen xa xỉ, hoang phí. Dù một chút bơ thừa cũng có thể để cho tôi tớ trong nhà dùng được, hoặc để làm dầu thắp đèn cũng đều có ích. Còn việc trị bệnh xin thầy chớ lo, tôi hứa sẽ đền đáp ơn thầy xứng đáng.”

Bà chủ quả thật giữ đúng như lời. Sĩ-hoa-ca trị dứt được bệnh rồi, bà thưởng cho thầy 4.000 đồng tiền vàng, và con, rể với chồng bà, mỗi người cũng đều trả ơn thầy 4.000 đồng tiền vàng nữa. Chồng bà lại còn biếu thêm cho thầy một đứa tớ trai, một đứa tớ gái, một con ngựa với một chiếc xe. Thầy Sĩ-hoa-ca mới chữa bệnh lần đầu mà được đến 16.000 đồng tiền vàng, không kể hai đứa tớ với ngựa và xe. Thầy mừng lắm, liền trở về thành Vương Xá, dâng hết lên ông hoàng, người đã có công ơn nuôi dưỡng và dạy dỗ mình. Nhưng ông hoàng không nhận, lại còn phong cho thầy làm lương y để trị bệnh trong cung.

Khi ấy, vua Tần-bà-sa-la đau nặng, được thầy chữa cho khỏi bệnh. Vua muốn trọng thưởng, mới truyền lệnh cho các cung phi cởi hết đồ nữ trang mà dâng cho thầy. Nhưng thầy không nhận sự tặng thưởng đó.

Vua liền phong cho thầy làm chức Ngự y, giao cho thầy lo việc trị bệnh trong hoàng cung và trị bệnh cho các vị đệ tử của đức Phật. Thầy rất vui mà nhận lấy trách nhiệm cao quý ấy.

Bấy giờ, tại thành Vương Xá, có một ông nhà giàu mang bệnh nhức đầu đã bảy năm. Ông ấy đã cầu đến các nhà lương ydanh tiếng, người nào cũng nhận lấy rất nhiều tiền bạc, mà không ai giúp được cho bệnh ông thuyên giảm. Họ còn dự đoán rằng ông sắp chết. Mỗi người đoán ngày chết của ông khác nhau nhưng cũng không chênh lệch mấy. Tựu trung, có người nói ông sẽ chết trong năm ngày, những người khác thì nói là ông sẽ chết trong bảy ngày.

Nhân dân trong thành Vương Xá ai nấy đều thương xót ông nhà giàu ấy, vì hằng ngày ông thường làm nhiều điều tốt đẹp, phước thiện, trên là đức vua, dưới là dân chúng, ai cũng khen ông là người đức độ. Vì thế, dân chúng trong thành mới cùng nhau kéo đến xin vua cho quan Ngự y trị bệnh cho ông. Vua vui lòng phê chuẩn, lập tức phái thầy Sĩ-hoa-ca đi trị bệnh cho ông nhà giàu.

Thầy được lệnh vua, bèn đến nhà người bệnh, xem mạch xong mới hỏi rằng: “Như tôi trị cho ông hết bệnh, ông trả công tôi thế nào?”

“Thưa thầy, tôi sẽ đem hết của cải mà dâng tặng thầy và theo làm người hầu cho thầy.”

Sĩ-hoa-ca lại nói: “Được, tôi có thể trị dứt bệnh cho ông. Nhưng ông có thể nằm nghiêng một bên suốt trong bảy tháng được chăng?”

“Dạ được.”

“Và ông có chắc chắn sẽ nằm nghiêng phía bên kia suốt trong bảy tháng nữa được chăng?”

“Dạ thưa thầy, chắc chắn được.”

“Rồi ông sẽ nằm ngửa cũng suốt trong bảy tháng, được không?”

“Dạ, cũng được.”

Thế là thầy Sĩ-hoa-ca bắt đầu trị bệnh. Thầy bảo ông kia nằm xuống, dùng dây buộc chặt ông vào giường. Rồi thầy lấy con dao thật nhỏ mà mổ trên sọ, lấy ra hai con sâu, một con nhỏ và một con lớn. Khi ấy thầy mới nói với người nhà rằng: “Các vị thầy thuốc kia nói rằng bệnh nhân sẽ chết trong năm ngày, vì họ thấy được con sâu lớn. Họ biết nó đang ăn vào sọ, nên đoán là ông phải chết trong năm ngày. Các vị khác nói rằng ông sẽ chết trong bảy ngày, là vì các vị này thấy được con sâu nhỏ. Tuy họ nói khác nhau nhưng cũng không sai lệch mấy.”

Ngự y nói rồi, bèn dùng thuốc bó rịt chỗ sọ đã mổ ra.

Được bảy ngày, bệnh nhân thưa với ông rằng nằm nghiêng một bên hoài chịu không nổi. Thầy nói: “Ông đã hứa với tôi rằng ông có thể nằm được bảy tháng mà!”

Ông nhà giàu đáp: “Thầy ơi, tôi thà tôi chịu chết chứ nằm mãi một bên đến bảy tháng, tôi không chịu nổi.”

Thầy bảo: “Thôi được, vậy tôi cho ông trở sang bên kia và phải nằm yên như vậy suốt trong bảy tháng.”

Được một tuần, bệnh nhân lại than rằng nằm nghiêng bên kia cũng không chịu nổi. Ngự y lại cho phép ông nằm ngửa ra trong bảy tháng.

Nhưng qua tuần nữa, bệnh nhân cũng than rằng nằm ngửa mãi không chịu nổi. Khi ấy, thầy Sĩ-hoa-ta mỉm cười nói rằng: “Ông lão ơi! Nếu tôi không nói trước rằng ông phải nằm đến ba kỳ bảy tháng thì e rằng ông đâu có nằm yên được ba kỳ bảy bữa. Bởi vậy, tôi phải nói thế để ông cố sức mà chịu, chứ bệnh của ông nằm yên được ba tuần lễ như vậy là vừa đủ rồi. Thôi, ông có thể ngồi dậy, từ nay ông đã hết bệnh rồi. Nhưng ông còn nhớ lời hứa hôm trước chứ?”

“Dạ nhớ, tôi sẽ đem hết tiền củathân mạng của tôi mà đền đáp ơn thầy.”

“Ấy chẳng qua tôi đùa với ông đó thôi, chứ tôi đâu cần nhiều tiền đến thế, và tôi đâu dám nhận ông làm người hầu. Ông hãy trả ơn đức vua một trăm ngàn đồng, và trả công cho tôi cũng bấy nhiêu đó là đủ rồi.”

Từ đó, danh tiếng Ngự y càng thêm lừng lẫy, lan đến tận các xứ xa. Các nơi đều nhờ thầy trị bệnh, và chưa bao giờ thầy cho thuốc mà bệnh lại không lành.

Đã giỏi nghề thuốc, thầy lại còn túc trí đa mưu. Nên khi thầy trị được một trường hợp đặc biệt này thì mọi người đều phục tài. Số là vua bên xứ U-sa-di-nít (Ujjayini) đau bệnh vàng da, đã mời hết các nhà danh y đến mà bao nhiêu thuốc men đều tỏ ra vô hiệu. Nghe tiếng đồn xa, vua phái sứ thần sang tận nơi rước thầy Sĩ-hoa-ca.

Thầy đến nơi, xem bệnh xong, tâu rằng: “Tâu bệ hạ, kẻ hạ thần định nấu bơ để làm thuốc cho bệ hạ.”

Vua giẫy nẩy: “Trẫm không muốn uống thuốc có bơ, vì trẫm ghê tởm món đó lắm. Thầy phải tìm loại thuốc khác mà cho trẫm uống.”

Thầy trở về suy nghĩ rằng: “Bệnh của vua mà không dùng bơ thì không thể dứt được. Ta phải nấu bơ cho chín, làm cho bơ mất mùi và giống hệt như nước trà mát mới được.” Thầy liền lấy bơ mà hòa với nhiều thứ thuốc cỏ, làm thành một thứ trà mát không còn mùi vị của bơ. Nhưng thầy biết rằng rồi đây thế nào vua cũng nhận ra mình bị gạt, vì khi uống vào bụng rồi thì vua sẽ biết là bơ. Thầy lại biết vua là một người nóng giận, chắc khi ấy thế nào cũng truyền lệnh xử tử thầy, nên thầy phải tính trước, liệu bề xa chạy cao bay. Thầy suy nghĩ như vậy, rồi vào tâu với vua rằng: “Tâu bệ hạ! Bọn lương y chúng tôi thường hay đi lấy thuốc nhằm những giờ bất thường, vậy xin bệ hạ cho phép kẻ hạ thần được tùy tiện đi khắp các nơi để tìm thuốc mà dâng lên bệ hạ.” Vua chuẩn y, liền truyền lệnh cho thầy được tùy tiện muốn đi đâu thì đi, không ai được ngăn cản. Khi ấy, thầy dâng thuốc cho vua uống xong, liền thẳng ra tàu ngựa, chọn một con ngựa có tài chạy nhanh hơn hết, là con ngựa cái tên La-ra-hoa-ty-ca, có thể đi một ngày đến năm mươi dặm. Thầy lên lưng ngựa rồi, nhanh chóng ra khỏi thành thẳng đường chạy suốt. Chẳng bao lâu thuốc thấm, vua biết mình đã uống bơ. Vua giận lắm, truyền rằng: “Sĩ-hoa-ca đã cho ta uống bơ. Vậy các ngươi tức tốc đi tìm nó về đây cho ta.”

Người hầu tâu rằng: “Tâu bệ hạ! Thầy ấy đã cưỡi con ngựa La-ra-hoa-ty-ca mà ra khỏi thành rồi.” Vua liền cho đòi một người tướng giỏi tên là Cát-ka, có tài đi nhanh gấp 10 lần người thường. Vua phán: “Này Cát-ka, khanh hãy đi nhanh theo cho kịp Sĩ-hoa-ca và làm thế nào đưa hắn trở lại đây, nói rằng trẫm muốn gặp hắn. Nhưng phải thận trọng, vì hắn là người nhiều mưu lắm kế. Nếu hắn có mời khanh ăn uống món gì thì nhớ là không được ăn.” Cát-ca vâng lệnh ra đi, theo kịp Sĩ-hoa-ca, và gặp lúc thầy đang ngồi ăn một cách rất bình tĩnh. Thầy lại mời rằng: “Mời ông ăn với tôi.”

“Dạ không, bệ hạ đã có lời dặn tôi không được ăn những thức ăn mà thầy mời.”

Lúc ấy, thầy Sĩ-hoa-ca đang ăn một trái xoài và uống nước. Trong móng tay thầy có sẵn một chút thuốc, thầy khéo léo để thuốc vào miếng xoài và mời Cát-ka ăn. Anh ta thấy thầy ăn ngon lắm mà không có việc gì, nên yên tâm cầm lấy ăn. Nhưng ăn chưa được nửa miếng và uống nước vào liền bị xây xẩm và mửa ra dữ dội. Anh ta sợ quá than khóc rằng: “Thầy ôi! Chắc tôi chết quá, xin thầy cứu tôi!”

Sĩ-hoa-ca nói: “Không sao đâu, không bao lâu rồi sẽ tự khỏi. Còn bây giờ, tôi vì vua đang giận muốn bắt tôi mà giết, nên tôi phải chạy xa. Ông về nói lại với đức vua là tôi đi không trở lại nữa.”

Thầy nói rồi, để con ngựa quý lại cho Cát-ka và thẳng đường đi nhanh về thành Vương-xá.

Tới nơi, thầy thuật lại với vua. Vua khen thầy là người mưu trí tuyệt vời. Còn ở nước kia, tuy nhà vua tức giận trong một lúc, nhưng rồi cũng nguôi dần, lại được dứt bệnh nên vua đổi giận làm vui. Chính lúc trước giận bao nhiêu, bây giờ lại vui bấy nhiêu và nhớ đến ơn thầy trị bệnh. Vua liền phái sứ sang thành Vương Xá, mời Ngự y trở lại để vua ban thưởng, muốn vật chi vua cũng ban thưởng cho. Nhưng thầy không đi nữa, và nói rằng vua muốn ban thưởng vật gì cũng được. Vua liền gửi sang biếu thầy hai cây gấm rất đẹp. Thầy nhận lãnh nhưng không dùng mà dâng cúng Phật, vì thầy cho rằng ngoài đức Phật và vua Tần-bà-sa-la, không còn ai xứng đáng để mặc y phục bằng gấm cả.

Sĩ-hoa-ca không chỉ là vị lương y danh tiếng, được vinh dự lo việc trị bệnh cho vua và các vị đệ tử của Phật, mà ông còn là một người có tín tâm sâu vững. Ông thường cúng dường Phậtchư tăng từ những món quý giá cho đến cả những vật dụng cần dùng hằng ngày. Ông cũng góp phần giáo hóa dân chúng trong thành cũng như khắp các vùng quê nơi ông đến trị bệnh, làm cho rất nhiều người phát tâm quy y Tam bảo và nương theo đạo Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14890)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17822)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18233)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 15012)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13207)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21185)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32612)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15331)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12362)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12841)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27560)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12153)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34988)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17766)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11842)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12658)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14575)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32487)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19469)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12983)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14103)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14277)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15329)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14155)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14148)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11959)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53224)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11681)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13936)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13830)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20723)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14322)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13438)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13643)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34229)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16237)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14076)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14220)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13574)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15940)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13528)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 23012)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27760)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13911)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 25016)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13960)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31360)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13874)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15572)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14990)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant