Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Seattle, 3 tháng tám 1950

08 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 5095)
2. Seattle, 3 tháng tám 1950

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ SỐNG VÀ CHẾT (ON LIVING and DYING)
Lời dịch: Ông Không 2009

Từ quyển Bình phẩm về sống
Tập 2

Seattle, 3 tháng tám 1950

Người hỏi: Chết là gì mà người ta phải sợ hãi nó?

Krishnamurti: Bạn biết chết là gì à? Bạn sợ hãi nó không?

Người hỏi: Có.

Người hỏi: Không.

Krishnamurti: Bạn không sợ hãi đến một kết thúc sao? Vậy thì bạn phải chán sống lắm! Chết là gì nếu nó không đến một kết thúc? Bạn sợ hãi để lại tất cả những kỷ niệm của bạn, những trải nghiệm của bạn, những người yêu quí của bạn, tất cả mọi thứ mà là bạn phải không? 

Người hỏi: Chúng ta không biết chết; chúng ta chỉ biết chết của người khác là gì.

Krishnamurti: Chắc chắn, chết là cái gì đó chúng ta không biết; chúng ta chỉ có thể trải nghiệm gián tiếp nó. Chết là đến một kết thúc, thân thể cũng như tâm lý.

Người hỏi: Chúng ta quan tâm không chỉ vấn đề chết mà còn cả vấn đề sợ hãi chết.

Krishnamurti: Vậy thì chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu vấn đề; chúng ta hãy cùng nhau trải nghiệm nó, thăm dò nó.

Chúng ta sợ hãi chết. Chúng ta không sợ hãi cái gì đó mà chúng ta biết xác thực và rõ ràng. Có sợ hãi chỉ khi liên quan đến điều gì không chắc chắn, điều gì có lẽ gây tổn thương, điều gì làm cho chúng ta bất an. Chết là một không chắc chắn, và đó là lý do tại sao chúng ta sợ hãi nó. Nếu chúng ta có thể biết toàn nội dung, toàn ý nghĩa của chết, biết toàn ngụ ý của cái gì vượt khỏi, lúc đó chúng ta sẽ không sợ hãi, phải không? Vậy thì làm thế nào chúng ta có thể biết chết là gì? Trong khi đang sống làm thế nào chúng ta có thể biết chết?

Người hỏi: Làm thế nào chúng ta có thể biết nó nếu không trải nghiệm nó?

Krishnamurti: Chúng ta sẽ hiểu nó trong chốc lát. Thật khó khăn cho chúng ta khi muốn hiểu rõ những phương cách của cái trí! Cái trí muốn biến cái không biết được thành cái biết được – và đó là một trong những khó khăn của chúng ta. Cái trí nói, “Nếu tôi không biết cái gì vượt khỏi chết, tôi sợ hãi; nhưng nếu bạn có thể bảo đảm cho tôi rằng có một tiếp tục, vậy thì tôi không còn sợ hãi.” Cái trí đang tìm kiếm chắc chắn; nhưng chừng nào chúng ta còn đang tìm kiếm chắc chắn, phải có sợ hãi. Chúng ta không sợ hãi chết nhưng chúng ta sợ hãi không chắc chắn. Chúng ta có thể vận hành chỉ khi nào chúng ta có một cảm giác của an toàn, và nếu cảm giác đó không còn trong chúng ta, chúng ta bị sợ hãi. Vì vậy nếu chúng ta có thể tìm ra chết là gì, lúc đó chúng ta sẽ được tự do khỏi sợ hãi.

Người hỏi: Nếu tôi nghĩ về chết như một kết thúc, làm thế nào tôi có thể có một cảm giác an toàn nếu tôi muốn tiếp tục? Trái lại, làm thế nào tôi có thể loại bỏ ham muốn cho sự chắc chắn của tôi?

Krishnamurti: Người ta có thể loại bỏ nó chỉ khi nào người ta nhận thức rằng không có chắc chắn.

Người hỏi: Nhưng chúng ta muốn chắc chắn về tương lai.

Krishnamurti: Chúng ta có thể à? Chúng ta muốn chắc chắn rằng chúng ta đã sống trong quá khứ và rằng chúng ta sẽ có một tiếp tục trong tương lai. Chúng ta có thể đọc tất cả mọi điều mà tất cả những quyển sách tôn giáo giảng giải; chúng ta có thể nghe những trải nghiệm của những người khác và tìm kiếm những bảo đảm của những người trung gian; nhưng việc đó sẽ làm cho chúng ta được tự do khỏi sợ hãi sao? Chừng nào chúng ta còn đang tìm kiếm sự chắc chắn, chúng ta phải sợ hãi sự không chắc chắn. Làm ơn, đây không là một câu nói hóc búa. Sự tìm kiếm cho cái đối nghịch, cho sự đối nghịch của chúng ta là gì, ham muốn để lẩn tránh, để chạy trốn khỏi chúng ta là gì, tạo ra sợ hãi, phải không? Vì vậy chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ sợ hãi là gì. Sợ hãi là gì?

sự kiện chết, và chúng ta nói rằng chúng ta sợ hãi sự kiện đó. Sợ hãi hiện diện bởi vì sự kiện đó, hay bởi vì từ ngữ chết, hay cảm giác đó độc lập khỏi từ ngữ? Chúng ta phản ứng lại những từ ngữ. Những từ ngữ như Thượng đế, tình yêu, cộng sản và dân chủ tạo ra trong chúng ta những phản ứng thuộc tâm lýthần kinh rõ ràng, đúng chứ? Khi chúng ta tin tưởng “Thượng đế” và nói về “Ngài,” chúng ta cảm thấy tốt lành hơn. Những từ ngữ như chết, ghét, người Đức, người Nga, người Ấn độ, và người da đen tất cả đều có một ý nghĩa sâu sắc lạ lùng cho chúng ta. Vì vậy chúng ta phải tìm ra liệu cảm giácchúng ta gọi là sợ hãi đó là một thực tế, hay liệu nó chỉ là kết quả của những từ ngữchúng ta sử dụng.

Người hỏi: Thực tếý nghĩa chúng ta trao cho từ ngữ.

Krishnamurti: Chúng ta hãy tìm hiểu nó. Nếu chúng ta nghiêm túc muốn được tự do khỏi sợ hãi, chúng ta phải tìm ra điều gì là tiếp cận đúng đắn đến nó. Chúng ta có thể thấy nhiều yếu tố khác nhau khiến chúng ta sợ hãi cái sự việc được gọi là chết này, nhưng tôi tự hỏi liệu không còn có một nguyên nhân khác, liệu chính từ ngữ chết không chịu trách nhiệm cho sợ hãi của chúng ta bởi vì ý nghĩa của nó, sự liên tưởng nó gợi lên trong cái trí của chúng ta, hay sao? Làm ơn hãy theo sát điều này, và chúng ta sẽ thấy điều gì bộc lộ từ nó. Từ ngữ chết không là chết thực sự, tuy nhiên nó có ý nghĩa quan trọng cho chúng ta, phải không?

Người hỏi: Từ ngữ đó chuyển tải một ý nghĩa rộng của kết thúc.

Krishnamurti: Vâng, và cũng của những sợ hãi về chủng tộc, về giai cấp, về cá thể. Những cái trí của chúng ta đã bị quy định, không những bởi từ ngữ đó, nhưng còn bởi những từ ngữ như là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa phát xít, hòa bình, chiến tranh, và nhiều từ ngữ khác. Điều đó không đúng sao? Những từ ngữ, những biểu tượng, những hình ảnh có nhiều quan trọng cho chúng ta, còn nhiều hơn những sự kiện, bởi vì chúng ta không thể suy nghĩ mà không có những từ ngữ. Từ ngữhình ảnh, biểu tượng, và suy nghĩ của chúng ta đang diễn đạt bằng lời, đang tạo ra biểu tượng, đang tưởng tượng, đang dán nhãn hiệu. Nếu chúng ta không có những hình ảnh, những biểu tượng, hay những từ ngữ, chúng ta sẽ không có ký ức, phải không? Vì vậy không phải sự kiện chết nhưng từ ngữ chết cho chúng ta cảm giác sợ hãi. Không à? Chúng ta cũng thấy sợ hãi xảy ra khi cái trí, mà quen thuộc với chắc chắn, bị đương đầu với không chắc chắn; khi cái trí, mà là kết quả của cái đã được biết, quá khứ, đối diện cái không biết được, tương lai.

Bây giờ câu hỏi kế tiếp là thế này: Liệu cảm giácchúng ta gọi là sợ hãi sẽ ở đó nếu chúng ta không cho nó cái tên “sợ hãi”? Liệu cảm giác sẽ tồn tại nếu không có từ ngữ?

Người hỏi: Từ ngữ chỉ là một nhãn hiệu tượng trưng cho cảm giác. Chúng ta phải đặt một cái tên cho cảm giác; đó là cách duy nhất của chúng ta để công nhận nó.

Krishnamurti: Khi chúng ta suy nghĩ kỹ càng về sợ hãi chết, cảm giác hay từ ngữ đến trước? Từ ngữ gây ra cảm giác, hay cảm giác không phụ thuộc từ ngữ? Đây thực sự là câu hỏi rất quan trọng, bởi vì nếu chúng ta có thể thâm nhập nó, tôi nghĩ có lẽ chúng ta sẽ thấy điều gì đó khá ý nghĩa.

Khi chúng ta bị đối diện với sự kiện chết, chúng ta đặt tên nó, và cái tên cho chúng ta cảm giác không chắc chắn, mà chúng ta không thích và làm cho chúng ta sợ hãi. Bây giờ chết là cái gì đó mới mẻ; sự kiện chết là một thách thức mới mẻ, phải không? Tuy nhiên khoảnh khắc chúng ta cho nó một cái tên, chúng ta đã đáp lại nó bằng cái cũ kỹ. Bất kỳ lúc nào cái trí gặp gỡ một sự kiện mới, một biến cố mới, một cảm giác mới, nó lập tức dán nhãn cho nó, công nhận nó, nhận dạng nó, bởi vì chúng ta nghĩ rằng đó là cách duy nhất chúng ta có để hiểu rõ bất kỳ thứ gì: mang cái mới mẻ vào cái cũ kỹ. Đó là cách cái trí vận hành, phải không? Đó là việc gì chúng ta làm tức khắc. Nó có thể là một hành động không ý thức, nhưng nó là phản ứng tức khắc của chúng ta. Cái trí không thể suy nghĩ về cái mới mẻ, vì vậy nó luôn luôn giải thích cái mới mẻ dựa vào cái cũ kỹ. Suy nghĩ là một qui trình diễn đạt bằng từ ngữ, phải không? Khi chúng ta bị thách thức bởi sự kiệnchúng ta gọi là chết, chúng ta phản ứng bằng cách suy nghĩ về nó, và sự giải thích bằng từ ngữ đó tạo ra sợ hãi. Bây giờ vấn đề là khi chúng ta bị thách thức bởi cái mà chúng ta đã đặt tên là chết, liệu có thể không phản ứng bằng từ ngữ.

Người hỏi: Tôi sẽ nói là không thể được.

Krishnamurti: Nếu bạn đã không thử nó, làm thế nào bạn có thể nói “được” hay “không”? Khi tôi đặt cho bạn câu hỏi này, bạn đang bị thách thức bởi cái gì đó, và phản ứng lập tức của bạn là cố gắng tìm ra một câu trả lời; cái trí của bạn liền vận hành, và ngay lập tức những từ ngữ xuất hiện. Làm ơn hãy theo dõi cái trí của bạn, và bạn sẽ thấy rằng khi bạn được hỏi điều gì đó mà bạn không biết, cái trí không giữ yên lặng và cố gắng hiểu rõ cái mới mẻ nhưng ngay lập tức bắt đầu nhìn trong những ghi lại cũ của ký ức để tìm câu trả lời.

Người hỏi: Kết luận hợp lý về lý lẽ của ông sẽ là kết thúc qui trình suy nghĩ.

Krishnamurti: Làm ơn, đây không là lý lẽ hợp lý; nó là sự quan sát thực tế. Bạn sẽ thấy điều gì xảy ra nếu bạn trải nghiệm nó. Khi cái trí gặp gỡ cái gì đó mới mẻ mà nó không có câu trả lời, không có những từ ngữ, nó trở nên yên lặng. Khi chúng ta trông thấy cái gì đó hoàn toàn mới mẻ mà chúng ta không công nhận và không thể nhận dạng nó với bất kỳ thứ gì chúng ta biết rồi, chúng ta không đặt tên nó. Chúng ta quan sát để tìm ra nó là gì, và không có sự diễn đạt bằng từ ngữ trong trạng thái chú ý quan sát đó. Khoảnh khắc chúng ta bắt đầu diễn đạt bằng từ ngữ, mọi trải nghiệm không còn là mới mẻ và trở thành cái cũ kỹ, đúng chứ?

Người hỏi: Nếu nó hoàn toàn mới mẻ, không có gì phải diễn đạt bằng từ ngữ về nó.

Krishnamurti: Chắc chắn. Vì vậy, chết là cái gì đó mới mẻ nếu chúng ta không diễn đạt bằng từ ngữ về nó. Mặc dù nó là một từ ngữ, nội dung của từ ngữ đó, chất lượng bị quy định của nó, đã không còn trong nó. Vậy là chúng ta có thể nhìn ngắm nó. Bây giờ trạng thái của cái trí bị thách thức bởi cái mới mẻ và không diễn đạt bằng từ ngữ về nó, không lập tức đáp lại bằng cách lục lọi trong những kỷ niệm cũ, những ghi lại cũ với mục đích tìm ra câu trả lời đúng, là gì? Cái trí đó cũng không mới mẻ hay sao? Những quy định cũ đã biến mất, sự lo âu không còn, sự tìm kiếm đã đến một kết thúc. Và khi thách thức là mới mẻ, và cái trí là mới mẻ, sợ hãi ở đâu?

Người hỏi: Cái trí là mới mẻ, nhưng thách thức vẫn còn là cũ kỹ, ngay cả khi không có một cái tên.

Krishnamurti: Chết là cái cũ kỹ chỉ khi nào chúng ta công nhận nó, và chúng ta chỉ có thể công nhận nó qua những từ ngữ, qua ký ức, mà là tình trạng bị quy định của người ta. Chết là cái cũ kỹ bởi vì nó có tất cả những ý nghĩa của sợ hãi, niềm tin, an ủi, tẩu thoát. Chúng ta đã luôn luôn tiếp cận nó bằng cái đã được biết; tiếp cận của chúng ta là tiếp cận cũ kỹ, và vì thế chúng ta công nhận nó như là chết. Nhưng nếu chúng ta có một tiếp cận mới mẻ, nếu chúng ta đến với nó bằng một cái trí mới mẻ, hoàn toàn xóa sạch cái cũ kỹ, nó có lẽ không còn là cái mà chúng ta gọi là chết, nó có lẽ là cái gì đó hoàn toàn khác hẳn.

Người hỏi: Chúng ta phải biết chúng ta đang nhìn thấy cái gì, thậm chí nếu chúng ta không cho nó một cái tên.

Krishnamurti: Đó là việc gì tôi đang đề nghị chúng ta thực hiện. Chúng ta hãy cố gắng tìm ra liệu cái trí có thể chấm dứt qui trình diễn đạt bằng từ ngữ và chỉ nhìn. Nếu cái trí có thể thực hiện việc đó, vậy thì cái sự việc mà cái trí đang nhìn này, và đó là cái mới mẻ, có tách khỏi chính cái trí, mà cũng là cái mới mẻ hay không? Có một phân chia giữa thách thức và người quan sát mà nhìn thách thức hay không?

Người hỏi: Người quan sát tạo ra thách thức.

Krishnamurti: Bạn quá mau lẹ khi trả lời. Làm ơn đừng diễn giải điều gì tôi đang nói thành quy định riêng của bạn, bởi vì như thế bạn sẽ mất đi toàn ý nghĩa của nó.

Người hỏi: Nếu cả hai đều mới mẻ, vậy thì làm thế nào chúng ta có thể nói rằng chúng hoặc giống hệt hoặc khác biệt?

Krishnamurti: Khi cái trí là mới mẻ, liệu thách thức, mà cũng là mới mẻ, ở bên ngoài của nó sao?

Sự khó khăn trong tất cả việc này là nếu chúng ta không thực sự trải nghiệm nó, nó sẽ chẳng có ý nghĩa cho chúng ta. Cái mới mẻ không có chết, nó liên tục đang trở thành, nó không bao giờ là cái cũ kỹ. Chỉ cái cũ kỹ mới sợ hãi đến một kết thúc. Và nếu chúng ta thâm nhập điều này rất, rất sâu thẳm, chúng ta sẽ thấy rằng cái trí có thể được tự do không chỉ tự do khỏi sợ hãi chết mà còn sợ hãi trong tất cả những hình thức của nó.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10181)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11232)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13565)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13705)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22172)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21835)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27346)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17762)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11716)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12312)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25229)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23254)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28555)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22746)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25666)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22265)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13982)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13419)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22432)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26326)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18448)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18949)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34474)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27344)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28361)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21352)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14878)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19190)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10609)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18555)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15656)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13173)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13414)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14014)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11784)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11621)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11335)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11877)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19931)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12382)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13935)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13267)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31927)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13423)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12747)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13320)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11877)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21839)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11081)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12887)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant