Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. New Delhi, 6 tháng mười một 1963

08 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 4810)
4. New Delhi, 6 tháng mười một 1963

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ SỐNG VÀ CHẾT (ON LIVING and DYING)
Lời dịch: Ông Không 2009

Từ quyển Bình phẩm về sống
Tập 3: Sống, chết, và Tồn tại

New Delhi, 6 tháng mười một 1963

Muốn tìm hiểu toàn vấn đề của chết, không phải lý thuyết nhưng thực tế, bạn cần sự khiêm tốn. Tôi đang sử dụng từ ngữ khiêm tốn đó không phải như một đức hạnh được vun đắp bởi sự tự đắc, bởi sự kiêu ngạo, nhưng như trạng thái tự nhiên đó của cái trí mà xảy ra khi bạn thực sự đang tự tìm hiểu và đang muốn tìm ra cho chính bạn. Bởi vì đạo đức không sinh sôi trong những biên giới của thời gian. Nó là một bông hoa hiện diện một cách tự nguyện. Người ta không phải tìm kiếm đạo đức hay vun đắp đạo đức. Nếu bạn làm như vậy, nó không còn là đạo đức. Muốn thấy sự thật rằng vun đắp đạo đức không là đạo đức cần đến một cái trí trong một trạng thái của khiêm tốn, bởi vì nếu không có khiêm tốn bạn không thể học hỏi. Tôi đang sử dụng từ ngữ học hỏi không trong ý nghĩa của tích lũy, mà là hiểu biết. Chúng ta đang sử dụng từ ngữ học hỏi đó trong ý nghĩa của một cái trí không đang tìm kiếm cái gì đó, không đang mưu cầu một kết thúc bởi một động cơ, nhưng trong ý nghĩa của một cái trí mềm dẻo, nhạy bén, có thể thấy điều gì là sự thật ngay tức khắc. Và muốn thực hiện việc đó bạn cần một khiêm tốn lạ thường mà trong nó có chất lượng đặc trưng của mộc mạc khi quan sát. Mộc mạc, như chúng ta biết nó, là khắc khổ, thô thiển; nó trở thành hẹp hòi, cố chấp, mù quáng, giáo điều – nhưng đó không là mộc mạc. Chúng ta đang sử dụng từ ngữ mộc mạc trong ý nghĩa của một cái trí mà đã quan sát, đã thấy điều gì là sự thật, và từ chính quan sát đó, nó ở trong một trạng thái tự do từ đó hiện diện kỷ luật mà là mộc mạc.

Phải có mộc mạc cùng khiêm tốn đó, và ở mức độ đó chúng ta sẽ hiệp thông cùng nhau. Bạn sẽ không học hỏi bất kỳ điều gì từ người nói. Nếu bạn làm như thế, người nói trở thành một uy quyền. Thế là, bạn thực sự không còn là một người quan sát – một người đang khẩn thiết tìm kiếm điều gì là sự thật và gạt đi điều gì là giả dối; bạn sẽ chỉ trở thành một người theo sau, và một người theo sau không bao giờ có thể tìm được điều gì là sự thật. Sự thật phải được khám phá từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, và bạn phải khám phá nó – không chỉ tuân theo những diễn tả bằng từ ngữ. Bạn phải tìm ra nó bằng toàn thân tâm của bạn, và muốn tìm ra nó, bạn cần khiêm tốn.

Một trong những việc mà người ta thấy trong thế giới và trong chính mình là trạng thái kỳ lạ của cái trí mà liên tục đang suy sụp, đang thoái hóa. Tôi không biết liệu bạn đã tự quan sát cái trí riêng của bạn, không phải lý thuyết, không phải phụ thuộc một công thức hoặc phụ thuộc thành công hay không-thành công, nhưng bằng chất lượng của một cái trí mà có thể duy trì sự hiệu quả, sự rõ ràng, khả năng quan sát điều gì là sự thật, mà không có một ý kiến, không có một tư tưởng. Khi người ta quan sát không chỉ những cái trí của những người khác mà còn cả cái trí riêng của người ta, người ta phát hiện rằng có một thoái hóa từ từ, không phải rằng người ta đã từng đạt đến một mức độ để từ đó người ta thoái hóa; người ta phát hiện rằng người ta không có nhạy bén, rõ ràng, năng lượng, chính xác được yêu cầu cho sự quan sát, cho một quan sátlý luận mà không chen vào bất kỳ cảm tính nào. Hầu hết chúng ta đều xơ cứng, được cố định trong một niềm tin an ủi, với một công việc, một vị trí, một gia đình để duy trì, và chúng ta sống trong trạng thái tối tăm của an toàn. Khi người ta bắt đầu tự quan sát cho chính người ta cái trí riêng của người ta, người ta chắc đã thấy được làm thế nào cái trí, khi nó lớn lên, khi các cơ quan vật chất trưởng thành, từ từ bắt đầu thoái hóa. Chúng ta chấp nhận sự suy sụp này, sự thoái hóa này, và chúng ta không ý thức nó. Và khi chúng ta trở nên ý thức được nó, nó trở thành một xung đột khủng khiếp – làm thế nào để bảo dưỡng cái trí đang suy sụp, đang thoái hóa? Có thể chúng ta chưa bao giờ tự đặt câu hỏi liệu cái trí có cần thoái hóa hay không. Có thể chúng ta chưa bao giờ tự tìm ra cho chính chúng ta bằng cách đặt câu hỏi liệu có thể chặn đứng sự thoái hóa, sự suy sụp hay không.

Rốt cuộc, sự thoái hóa của cái trí, sự giảm sút của nhạy cảm, sự thiếu rõ ràng của tất cả quan sát của chúng ta – đó đúng thực là chết, phải không? Vì vậy, chúng ta phải tự tìm ra cho chính chúng ta liệu luôn luôn có thể duy trì một chất lượng của cái trí không biết đến thoái hóa? Khi tôi sử dụng từ ngữ cái trí, tôi bao gồm trong đó bộ não – tổng thể – không phải là năng lực thâu lượm một kỹ thuật đặc biệtvận hành theo kỹ thuật đó suốt đời rồi sau đó chết. Tôi đang sử dụng từ ngữ cái trí trong ý nghĩa cả cái trí tầng ý thức bên ngoài lẫn bên trong, trong đó có bao gồm bộ não – bộ não cùng tất cả những phản ứng của nó, bộ não mà suy nghĩ, hành động, bị kích thích, đáp trả lại tất cả những căng thẳng thần kinh. Chúng ta thấy, khi chúng ta lớn lên, rằng cái trí này bắt đầu suy sụp. Quan sát những người già; quan sát tất cả những người chính trị lớn tuổi; quan sát bằng cách nào ngay cả những người trẻ cũng muốn rơi vào khe rãnh của một tư tưởng đặc biệt và sống theo khe rãnh đó.

Vì vậy dường như đối với chúng ta, rất quan trọng phải tự tìm ra cho chính mình liệu có thể duy trì sự rõ ràng của quan sát đó, thực sự, không lý thuyết – thực sự trong ý nghĩa của hiện tại đang sống, trong hiện tại năng động. Tôi sử dụng từ ngữ hiện tại đó không phải trong ý nghĩa của thời gian như ngày mai, hôm qua hay bây giờ. Hiện tại năng động luôn luôn là hiện tại; nó không có ngày mai hay hôm qua. Bạn không nên có ý tưởng rằng bạn sẽ có năng lượng năng động, thuộc sức sống này vào ngày mai; bạn phải ý thức được hiện tại năng động này bằng tất cả năng lượng của bạn, không chỉ năng lượng thuộc công nghệ mà còn bằng tất cả những năng lượng thuộc thẩm mỹ của bạn, bằng những tình cảm của bạn, bằng những phiền muộn của bạn, bằng những đau khổ của bạn, những thất vọng, những tham vọng, những thất bại, và sự khổ não của vô vọng. Liệu có thể tỉnh thức được tất cả điều đó và duy trì sự rõ ràng của quan sát lẫn sự hồn nhiên của tìm hiểu hay không? Nếu điều này không thể được, bất kỳ hành động nào chúng ta thực hiện đều không có ý nghĩa thuộc sức sống. Nó trở thành máy móc.

Làm ơn hãy quan sát những cái trí riêng của các bạn. Bạn không đang lắng nghe người nói. Đừng bị trói buộc trong những từ ngữ của người nói. Ông ta chỉ đang diễn tả, và điều gì được diễn tả không là sự kiện. Từ ngữ không là sự kiện; từ ngữ cái cây không là sự kiện, mà là cái cây. Nếu bạn muốn quan sát cái cây, từ ngữ chẳng quan trọng bao nhiêu.

Chúng ta đang đặt ra một câu hỏi cơ bản, và bạn phải tìm ra lẫn khám phá sự thật của nó. Câu hỏi của chúng ta là: Liệu cái trí có thể luôn luôn không mất sự rõ ràng của nó, khả năng lý luận của nó – không lệ thuộc thành kiến nào, không lệ thuộc một tưởng tượng hay quan điểm hay hiểu biết nào – và tự duy trì trong một trạng thái lành mạnh không có bất kỳ những ngõ ngách nào bị mục nát, chưa khai phá, tối tăm? Liệu có thể được? Muốn tìm ra điều đó, người ta phải ý thức được những nguyên nhân của sự thoái hóa này. Lúc này, chúng ta đang sử dụng từ ngữ nguyên nhân chỉ để thể hiện cái nguồn mà từ đó cái trí bị làm cho tối tăm. Bạn có thể khám phá nguyên nhân căn bệnh của bạn, nhưng bạn phải làm cái gì đó cho nó, bạn phải đi khám bác sĩ, bạn có lẽ phải giải phẫu; bạn phải hành động. Nhưng hầu hết chúng ta đều nghĩ rằng bằng cách chỉ khám phá nguyên nhân, chúng ta đã giải quyết toàn sự việc. Và thế là sự lặp lại tiếp tục. Sự lặp lại là một trong những nhân tố của thoái hóa – qui trình lặp lại, sự hình thành của những thói quen và sống trong những thói quen đó. Vì vậy sự khám phá nguyên nhân sẽ không làm tự do cái trí khỏi nhân tố của thoái hóa.

Một trong những nhân tố chính của thoái hóa là sự lặp lại, sự lặp lại thuộc tâm lý – không phải mặc một cái áo sơ mi hay một cái áo khoác, hay đi làm việc, hay học một kỹ thuật đặc biệt, mà bạn lặp lại; điều đó quá thô thiển. Sự lặp lại tôi muốn nói là hệ thống máy móc để hình thành thói quen của cái trí, mà, trong trạng thái tâm lý, vận hành trong những niềm tin, trong những giáo điều, trong những quan điểm.

Nếu bạn quan sát, bạn sẽ thấy cái trí của bạn vận hành trong thói quen như thế nào. Nó vận hành trong thói quen bởi vì từ cốt lõisợ hãi không được an toàn. Vì vậy một trong những nhân tố chính của thoái hóasợ hãi, sợ hãi thuộc tâm lý, không phải sợ hãi bình thườngtự nhiên khi đang bị cắn bởi một con rắn và đang tự bảo vệ mình – đó là một vấn đề khác.

Bạn biết, một trong những khó khăn của chúng tachúng ta luôn luôn thỏa mãn với những câu trả lời rõ ràng, và chúng ta luôn luôn đặt ra những câu hỏi rõ ràng. Ví dụ câu hỏi về đơn giản “sống đơn giản.” Trả lời lập tức của chúng ta, mà khá rõ ràng, tầm thường, và vô vị, là: bạn chỉ có hai bộ quần áo để thay đổi và chỉ có một bữa cơm. Làm như vậy, bạn được xem như là rất, rất đơn giản. Điều đó không là đơn giản gì cả – nó nghiêng về sự phô trương và sự chấp nhận thuộc truyền thống của đơn giản là gì. Nhưng đơn giản là điều gì đó hoàn toàn khác hẳn. Sống đơn giản nghĩa là có một cái trí minh bạch, không mâu thuẫn, không tham vọng, thực sự không bị hư hỏng bởi những ham muốn riêng của nó. Nhưng chúng ta lại quá dễ dàng thỏa mãn bởi những việc rõ ràng. Chúng ta nói rằng một con người là một vị thánh bởi vì anh ấy sống một cuộc sống rất đơn giản, ăn một ngày một bữa và có hai bộ quần áo; và chúng ta nghĩ chúng ta đã giải đáp câu hỏi về đơn giản. Anh ấy có lẽ đang trải qua đau khổ bên trong. Một người sống trong mâu thuẫn, dù anh ấy thánh thiện như thế nào, không là một người đơn giản, và cũng không là một người tôn giáo.

Trong cố gắng tìm ra những nhân tố của thoái hóa là gì, người ta phải không được phép thỏa mãn bởi những câu hỏi rõ ràng và những câu trả lời rõ ràng. Người ta phải gạt đi những rõ ràng đó và tiến sâu vào, xé nát để tìm được sự thật của vấn đề, và điều đó cần đến năng lượng. Và năng lượng đó chỉ có thể hiện diện khi bạn thực sự không quan tâm đến điều gì sắp sửa xảy ra cho sống riêng của bạn khi bạn đơn giản. Muốn tìm được những nhân tố của thoái hóa, bạn phải tìm hiểu; bạn phải đặt ra câu hỏi cơ bản là liệu một cái trí có thể sống mà không có thói quen, không tuân phục. Điều này có nghĩa sự tìm hiểu toàn bộ vào uy quyền, không những uy quyền bị áp đặt mà còn cả uy quyền của những tầm nhìn, hiểu biết, những trải nghiệm riêng của người ta, và mọi chuyện như thế. Vậy là người ta bắt đầu thấy rằng có thoái hóa khi nào còn có xung đột thuộc bất kỳ loại nào, tại bất kỳ mức độ nào, có ý thức hay không ý thức. Và hầu hết sống của chúng ta là một xung đột ghê tởm, mà không có bất kỳ giải pháp, mà không có bất kỳ lối thoát – xung đột không ngừng nghỉ.

Vì vậy câu hỏi là liệu thói quen, xung đột, và bắt chước có thể kết thúc, không phải cuối cùng, không phải khi bạn chết, nhưng ngay lúc này, trong hiện tại năng động. Qua từ ngữ bắt chước tôi có ý không phải sự bắt chước bên ngoài nhưng sự bắt chước đã bám rễ chặt, thuộc tâm lý mà được gọi là một phương pháp, đang tuân phục vào một kỷ luật, vào một khuôn mẫu – khuôn mẫu Ấn độ giáo, khuôn mẫu người Mỹ, khuôn mẫu người Nga, hay khuôn mẫu Thiên chúa giáo, và vân vân. Bắt chước đó chỉ hiện diện khi có sự thôi thúc, sự tìm kiếm thanh thản trong an toànan toàn thuộc tâm lý. Chúng ta tìm kiếm an toàn tâm lý phía bên trong, và thế là không có an toàn bên ngoài cho bất kỳ ai trong chúng ta. Nếu bạn suy nghĩ điều đó kỹ càng, bạn sẽ thấy sự thật của vấn đề.

Sự ham muốn được an toàn nuôi dưỡng sợ hãi, sợ hãi khi sống và sợ hãi khi chết. Sợ hãi không là một sự việc trừu tượng. Nó thực sự ở đó giống như cái bóng của bạn. Từng giây phút của ngày nó ở đó – sợ hãi người chủ của bạn, sợ hãi người vợ của bạn, sợ hãi người chồng của bạn, sợ hãi mất mát. Và cùng sợ hãi đó chúng ta cố gắng sống. Vậy là chúng ta không biết sống là gì. Làm thế nào một cái trí sợ hãi có thể sống? Nó có thể thiết lập một nơi ẩn náu; nó có thể tự làm ấm áp; nó có thể tự cô lập; nó có thể tuân phục một khuôn mẫu, một ảo tưởng tôn giáo, một tưởng tượng; nó có thể sống trong tất cả điều đó, nhưng nó không đang sống. Và sợ hãi này biến chết thành cái gì đó xa thật xa. Chúng ta đuổi sợ hãi ra thật xa nhiều năm đằng trước chúng ta, một khoảng cách to tát giữa sự kiện đó và ảo tưởngsợ hãi đã tạo tác và ảo tưởngchúng ta gọi là sống. Vậy là sống của chúng ta không bao giờ phong phútrọn vẹn – tôi không có ý nói sự phong phú của hiểu biết, học thức trong sách, hay đọc những quyển sách mới nhất rồi nói về nó vô tận. Tôi có ý “sống phong phú,” trong ý nghĩa này: nó hiểu rõ, nó minh bạch, nhạy bén, tỉnh thức, sinh động, đầy năng lượng, và hiệu quả trong sự quan sát lẫn kỷ luật riêng của nó; vì vậy nó có thể nhìn ngắm một cái cây và thưởng thức cái cây, nhìn ngắm những vì sao, nhìn ngắm con người mà không ganh ghét. Thế là một sống như thế không là một sống của tham vọng, tham lam, và tôn sùng sự thành công.

Làm ơn, thưa các bạn, người nói có ý chính xác như điều gì ông ta đang nói. Đây không chỉ là những từ ngữ mà bạn lắng nghe, rồi sau đó bạn quay lại sống cũ kỹ của bạn. Chúng ta đang nói về điều gì đó rất, rất nghiêm túc. Phải có một thế hệ mới mẻ, con người mới mẻ, những cái trí mới mẻ, không phải những cái trí cũ kỹ chết rồi cùng những sợ hãi của chúng, cùng hư hỏng của chúng, cùng những quốc tịch của chúng, cùng những chính phủ nhỏ nhen, tầm thường của chúng. Một con người mới mẻ phải được hiện diện để giải quyết vấn đề to tát của sống này, và không một ai sẽ sáng tạo con người đó ngoại trừ bạn và tôi. Và bạn phải thực hiện nó – không phải trong thế hệ tương lai nào đó nhưng tức khắc, mà có nghĩa người ta phải thấy sự khẩn cấp của sự việc. Bạn biết, khi bạn thấy sự khẩn cấp của cái gì đó mà cần được thực hiện tức khắc, tất cả những khả năng của bạn, tất cả năng lượng của bạn, tất cả hiệu quả của bạn, đều hiện diện. Bạn không phải vun quén chúng; chúng ở đó khi bạn thấy sự khẩn cấp của cái gì đó – giống như sự khẩn cấp của bị đói – và vậy là bạn hành động.

Chúng ta không biết sống là gì, chúng ta cũng không biết chết là gì. Sự việc mà bạn gọi là “sống” là một hành hạ với thỉnh thoảng những vui thú, mà là một cảm giác – được nuôi dưỡng tốt, có một bữa ăn ngon, ái ân, lái một chiếc xe đẹp, hay muốn lái một chiếc xe đẹp, hay ganh tị một người đang lái một chiếc xe đẹp, và vân vân. Đó là sống của chúng ta. Làm ơn hãy tự quan sát, và bạn sẽ thấy cái sự việc thô tục, xấu xa mà sống đã trở thành, không có tình yêu, không có vẻ đẹp, không có ân cần. Đó là sống của chúng ta, và chúng ta thỏa mãn nó. Chúng ta bao dung nó. Chúng ta không nói, “Tôi sẽ phá vỡ và tìm ra.” Chúng ta sáng chế mọi loại lý do giả dốisai lầm.

Muốn sống trọn vẹn, tổng thể, bạn không thể có một lý tưởng đằng đó, và bạn sống ở đây. Những lý tưởng không có ý nghĩa gì cả; nó là một tưởng tượng. Cái gì là một sự kiện là lao dịch hàng ngày, những sợ hãi, những hy vọng, những phiền muộn hàng ngày của bạn. Đó là thực tế, và chúng ta trở nên quen thuộc với nó; bằng ký ức của những hành hạ, những hy vọng, những sợ hãi, những tham vọng của chúng ta, chúng ta chuyển tới chết, mà ở xa thật xa. Vậy là điều gì xảy ra? Chúng ta sợ hãi chết, và chúng ta sợ hãi sống.

Muốn tìm ra chết là gì cần đến một cái trí không sợ hãi. Tôi không hiểu liệu bạn đã từng quan sát những người phi công – những người lái những chiếc máy bay kỳ diệu mà bay hơn một tiếng đồng hồ trên một ngàn dặm – phương pháp họ được huấn luyện còn nhiều hơn tất cả những người tập yoga hợp thành. Họ phải đối diện chết, và vì vậy phản ứng của họ phải tức khắc, không ý thức. Họ được huấn luyện suốt nhiều năm để đối diện chết – muốn sống sót họ phải phản ứng tức khắc đến những dụng cụ, đến tất cả những mệnh lệnh. Đó là một cách để không còn sợ hãi chết – có nghĩa là, rèn luyện bạn thật hoàn hảo, thật vô tình đến độ bạn chết vì những chỉ thị của một người khác cho quốc gia của bạn và tất cả những chuyện vô lý đó. Tiếp theo có chết bằng tự tử: có nghĩa là, bạn đối diện sống, và sống không có ý nghĩa; bạn đã đến sự kết thúc của mọi sự việc, bạn nhảy khỏi một chiếc cầu, hay bạn uống thuốc. Tiếp theo có cách khác, cách tạm gọi là tôn giáo: bạn có những tin tưởng kỳ lạ trong đầu thai, trong sanh lại, và bạn giải thích chết theo tín ngưỡng của bạn, bởi vì bạn sẽ sống cùng loại sống ghê tởm trong đời sau – cùng hành hạ, khốn khổ, tuyệt vọng, cùng dối gạt, cùng đạo đức giả; và bạn thỏa mãn với những niềm tin này bởi vì tạm thời chúng trao tặng bạn sự an ủi; chúng che giấu sợ hãi của bạn.

Bây giờ tất cả những cách chết đó đều rất tầm thường, giả dối, và không đáng tin cậy. Chúng ta đang nói về chết thuộc một loại khắc hẳn, đó là sống cùng chết. Bạn hiểu chứ? Sống cùng chết, không phải có khoảng cách thời gian này giữa bạn và kết thúc cuối cùng. Kết thúc cuối cùng có lẽ năm mươi hay một trăm năm sau, hay những vị bác sĩ hoặc những người khoa học có lẽ thêm vào nó năm mươi năm nữa, nhưng kết thúc cuối cùng luôn luôn ở đó. Chúng ta đang nói về một sống tự nguyện cùng chết. Tôi sẽ trình bày điều đó bởi vì nó là cách duy nhất để giải đáp toàn nghi vấn của chết, không qua những niềm tin, không qua những lý tưởng, không qua cấu trúc của sợ hãi và mọi chuyện linh tinh như thế.

Với bạn, muốn tìm ra chết là gì, phải không còn khoảng cách giữa chết và bạn mà đang sống cùng những phiền muộn của bạn; bạn phải hiểu rõ ý nghĩa của chết và sống cùng nó trong khi bạn hoàn toàn tỉnh táo, không hoàn toàn chết, vẫn chưa chết. Cái sự việc được gọi là chết đó là sự kết thúc của mọi thứ mà bạn biết. Thân thể của bạn, cái trí của bạn, công việc của bạn, những tham vọng của bạn, những sự việc bạn đã xây dựng, những sự việc bạn muốn thực hiện, những sự việc bạn chưa làm xong, những sự việc bạn đang cố gắng hoàn tất – có một kết thúc của tất cả những sự việc này khi chết đến. Đó là sự kiệnkết thúc. Điều gì xảy ra sau đó là một vấn đề hoàn toàn khác hẳn. Việc đó không quan trọng, bởi vì bạn sẽ không tìm hiểu điều gì xảy ra sau đó nếu khôngsợ hãi. Vậy là chết trở thành cái gì đó lạ thường – không phải tàn bạo, không phải kinh dị, không phải bệnh hoạn – bởi vì lúc đó chết là cái gì đó không biết được, và có vẻ đẹp vô cùng trong cái không biết được đó. 

Đây không chỉ là những từ ngữ.

Vậy là muốn tìm được toàn ý nghĩa của chết, nó có nghĩa gì, thấy sự vô hạn của nó – không phải là những hình ảnh tượng trưng, ngu xuẩn về chết – sợ hãi sống và sợ hãi chết này phải kết thúc hoàn toàn, không chỉ tầng ý thức bên ngoài mà còn sâu thẳm bên trong. Hầu hết chúng ta đều muốn chết, ao ước chết, bởi vì sống của chúng ta quá nông cạn, quá trống rỗng. Và bởi vì sống của chúng ta quá trống rỗng, chúng ta cố gắng trao sự quan trọng, ý nghĩa cho sống. Chúng ta hỏi, “Mục đích của sống là gì?” Bởi vì sống riêng của chúng ta quá trống rỗng, nông cạn, vô giá trị, chúng ta nghĩ chúng ta phải có một lý tưởng để sống dựa vào nó. Điều đó hoàn toàn vô lý. Sợ hãi là nguồn gốc của sự tách rời giữa sự kiện chúng ta gọi là chết và sự kiện chúng ta gọi là sống. Điều đó có nghĩa gì, thực sự, không phải lý thuyết? Chúng ta không đang thảo luận theo lý thuyết; chúng ta không đang lập công thức một ý tưởng, một khái niệm. Chúng ta không làm vậy; chúng ta đang bàn về những sự kiện; và nếu bạn chuyển một sự kiện thành một lý thuyết thuần túy, nó là bất hạnh riêng của bạn. Bạn sẽ sống cùng cái bóng sợ hãi riêng của bạn, và sống của bạn sẽ kết thúc trong đau khổ, giống như nó đã khởi đầu trong đau khổ.

Vậy là bạn phải tìm ra làm thế nào để sống cùng chết – không phải một phương pháp. Bạn không thể có một phương pháp để sống cùng cái gì đó bạn không biết. Bạn không thể có một ý tưởng và nói, “Ông chỉ cho tôi phương pháp, và tôi sẽ luyện tập nó, và tôi sẽ sống cùng chết” – điều đó không có ý nghĩa gì cả. Bạn phải tìm ra nó có nghĩa gì khi sống cùng cái gì đó mà phải là một sự việc lạ thường; thực sự thấy nó, thực sự cảm giác nó; ý thức được sự việc được gọi là chết này mà bạn quá kinh hãi. Sống cùng cái gì đó mà bạn không biết có nghĩa gì? Tôi không hiểu liệu bạn đã từng suy nghĩ về nó trong cách đó. Có thể bạn chưa. Bởi vì sợ hãi nó, tất cả mọi việc bạn đã làm là cố gắng lẩn tránh nó bằng cách không quan sát nó hay bằng cách nhảy tới lý tưởng gây hy vọng nào đó. Nhưng bạn thực sự phải hỏi câu hỏi cơ bản, đó là tìm ra chết có nghĩa gì và tìm ra liệu bạn có thể sống cùng nó như bạn muốn sống cùng người vợ của bạn, cùng con cái của bạn, cùng công việc của bạn, cùng lo âu của bạn. Bạn sống cùng tất cả những điều này, đúng chứ? Bạn sống cùng nhàm chán của bạn, cùng những sợ hãi của bạn. Liệu bạn có thể sống giống như vậy cùng cái gì đó mà bạn không biết?

Muốn tìm ra nó có nghĩa gì khi sống không những cùng sự việc được gọi là sống nhưng còn cả cùng chết, mà là cái không biết được, muốn tìm hiểu nó rất sâu thẳm, chúng ta phải chết đi mọi thứ mà chúng ta biết. Tôi đang nói về hiểu biết tâm lý, không phải những vật dụng như ngôi nhà của bạn, văn phòng của bạn; nếu bạn không có chúng, bạn sẽ không nhận được tiền ngày mai, hay bạn mất công việc của bạn, hay bạn không có lương thực. Chúng ta đang nói về chết đi mọi thứ mà bạn bám vào. Bạn biết, chúng ta muốn chết đi những thứ mà gây đau khổ cho chúng ta; chúng ta muốn chết đi những sỉ nhục, nhưng chúng ta bấu víu những nịnh nọt. Chúng ta muốn chết đi đau khổ, nhưng chúng quyết tâm khắn khít với vui thú. Làm ơn hãy quan sát cái trí riêng của bạn. Liệu bạn có thể chết đi vui thú đó, không phải cuối cùng nhưng ngay lúc này? Bởi vì bạn không lý luận với chết, bạn không thể có một tranh cãi kéo dài với chết. Bạn phải tự nguyện chết đi vui thú của bạn, mà không có nghĩa bạn trở nên khắc khổ, cục súc, xấu xa, giống như một trong những vị thánh này. Trái lại, bạn trở nên nhạy cảm cực độ, bạn ân cần vô hạn.

Liệu có thể chết đi mọi thứ, nhờ đó bạn biết về chính bạn? Chết đi – tôi đưa ra một ví dụ rất đơn giản – một thói quen, buông bỏ một thói quen nhậu nhẹt hay hút thuốc, dùng một loại thức ăn đặc biệt, hay thói quen ái ân; hoàn toàn buông bỏ nó không một nỗ lực, không một đấu tranh, không một xung đột, không nói, “Tôi phải từ bỏ nó.” Lúc đó bạn sẽ thấy rằng bạn đã quẳng lại đằng sau hiểu biết, trải nghiệm, những kỷ niệm của tất cả những sự việc bạn đã biết và học hỏi và sống dựa vào. Và thế là bạn không còn sợ hãi, và cái trí của bạn rõ ràng kinh ngạc để nhìn ngắm cái gì là hiện tượng lạ thường này mà con người đã kinh hãi qua hàng thiên niên kỷ, nhìn ngắm cái gì đó mà bạn phải đối diện, mà không thuộc thời gian, mà là cái không biết được trong tổng thể của nó. Chỉ duy nhất cái trí đó có thể nhìn ngắm như thế, mà không sợ hãivì vậy được tự do khỏi cái đã được biết – cái đã được biết của tức giận của bạn, của những tham vọng của bạn, của những tham lam của bạn, của những theo đuổi nhỏ nhen tầm thường của bạn. Tất cả những điều này là cái đã được biết. Bạn phải chết đi chúng, tự nguyện thả rơi chúng, buông bỏ chúng dễ dàng, mà không có mọi xung đột. Và nó có thể được – đây không là một lý thuyết. Vậy là cái trí được trẻ trung lại, tươi mát, hồn nhiên, trong sáng, và thế là nó có thể sống cùng cái sự việc được gọi là chết đó.

Vậy là bạn sẽ thấy rằng sống có một chất lượng hoàn toàn khắc hẳn. Vậy là sống và chết không bị tách lìa; chúng là một, bởi vì bạn đang chết đi từng giây phút trong ngày với mục đích để sống. Và bạn phải chết mỗi ngày để sống; nếu không, bạn chỉ tiếp tục sự lặp lại giống như một cái máy ghi lại, đang lặp lại, đang lặp lại, đang lặp lại.

Vậy là khi bạn thực sự có hương thơm của cái này – không phải trong mũi của ai đó nhưng trong mũi của bạn, trong hơi thở của bạn, trong thân tâm của bạn, không phải vào những dịp hiếm hoi nào đó nhưng hàng ngày, cả thức lẫn ngủ – vậy là bạn sẽ tự thấy được, mà không cần người nào đó nói cho bạn, sống là một sự việc lạ thường bằng thực tế, không phải bằng những từ ngữ hay những biểu tượng, sống cùng chết và vậy là sống từng giây phút trong một thế giới không có cái đã được biết, nhưng luôn luôn có sự tự do khỏi cái đã được biết. Chỉ một cái trí như thế mới có thể thấy cái gì là sự thật, cái gì là vẻ đẹp, và cái từ vĩnh hằng sang vĩnh hằng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10192)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11249)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13592)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13743)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22217)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21877)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27389)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17780)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11741)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12331)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25248)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23289)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28585)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22772)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25717)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22306)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13994)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13436)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22481)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26393)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18486)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18966)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34518)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27387)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28427)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21389)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14901)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19219)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10622)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18575)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15665)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13189)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13423)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14028)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11793)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11634)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11343)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11898)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19946)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12399)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13942)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13274)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31984)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13438)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12759)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13333)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11905)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21870)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11097)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12902)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant