Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

3. London, 12 tháng sáu 1962

08 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 6052)
3. London, 12 tháng sáu 1962

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ SỐNG VÀ CHẾT (ON LIVING and DYING)
Lời dịch: Ông Không 2009

Từ quyển Bình phẩm về sống
Tập 3: Sống, chết, và Tồn tại

London, 12 tháng sáu 1962

Tôi muốn nói về thời gian và chết, và tôi cũng muốn nói về điều gì chúng ta gọi là tình yêu.

Chúng ta không đang quan tâm đến những ý tưởng. Những ý tưởngtư tưởng đã được tổ chức, và tư tưởng không giải quyết được những vấn đề tâm lý sâu thẳm của chúng ta. Điều gì thực sự xóa sạch những vấn đề của chúng ta là giáp mặt chúng, không phải qua bức màn của tư tưởng nhưng tiếp xúc trực tiếp và toàn sinh lực cùng chúng, thực sự đang thấy và đang cảm thấy sự kiện. Nếu tôi được phép sử dụng từ ngữ, người ta phải đầy cảm xúc – không phải cảm tính nhưng cảm xúctiếp xúc cùng sự kiện. Nếu chúng ta phụ thuộc vào tư tưởng, dù khôn ngoan, dù tổ chức tốt, dù có học thức, có lý luận, lý lẽ, hợp lý đến chừng nào chăng nữa, những vấn đề tâm lý của chúng ta sẽ không bao giờ được giải quyết. Bởi vì chính tư tưởng tạo ra tất cả những vấn đề của chúng ta. Một người thực sự muốn tìm hiểu toàn vấn đề của chết này và không tẩu thoát khỏi nó phải tự tìm ra cho chính mình bằng cách nào tư tưởng tạo ra thời gian, và bằng cách nào tư tưởng cũng ngăn cản chúng ta không hiểu rõ ý nghĩa, sự quan trọng, và sự phong phú của chết.

Hầu hết chúng ta đều sợ hãi chết, và chúng ta cố gắng tẩu thoát khỏi sợ hãi đó bằng cách lý luận chết và bám vào vô số những niềm tin, lý luận hay không lý luận, lại nữa được sáng chế bởi tư tưởng. Dường như đối với tôi, muốn tìm hiểu vấn đề của chết này đòi hỏi một cái trí không chỉ có lý luận, hợp lý, thông minh, nhưng cũng có thể quan sát trực tiếp sự kiện, thấy chết như nó là và không bị che lấp bởi sợ hãi.

Muốn hiểu rõ sợ hãi, chúng ta phải hiểu rõ thời gian. Tôi không có ý nói về thời gian bởi đồng hồ, thời gian tuần tự. Nó rất đơn giản; nó thuộc máy móc; không có gì cần phải hiểu rõ. Tôi đang nói về thời gian tâm lý: nhìn lại nhiều ngày hôm qua, tất cả những việc mà chúng ta đã biết, đã cảm thấy, đã thụ hưởng, đã thâu lượm, và đã lưu trữ trong ký ức. Sự hồi tưởng của quá khứ định hình hiện tại của chúng ta, mà luân phiên được chiếu rọi vào tương lai. Toàn qui trình này là thời gian tâm lý, mà tư tưởng bị trói buộc. Tư tưởng là kết quả của hôm qua lướt qua hôm nay sang ngày mai. Tư tưởng của tương lai bị quy định bởi hiện tại, mà lại nữa bị quy định bởi quá khứ

Quá khứ được cấu thành từ những sự việc mà cái trí tầng ý thức bên ngoài đã học hành ở trường, những công việc nó có, hiểu biết kỹ thuật nó đã thâu lượm, và vân vân, tất cả điều đó là sự tiến hành thuộc máy móc của ghi lại; nhưng nó cũng được cấu thành từ hiểu biết tâm lý, những sự việc người ta đã trải nghiệm và đã lưu trữ, những kỷ niệm được giấu giếm sâu thẳm trong cái trí tầng ý thức bên trong. Hầu hết chúng ta không có thời gian để tìm hiểu tầng bên trong; chúng ta quá bận rộn, quá lao xao bởi những hoạt động hàng ngày của chúng ta; thế là tầng bên trong đưa ra những gợi ý, những bóng gió trong hình thức của những giấc mộng, và sau đó những giấc mộng này cần sự diễn giải.

Tất cả việc này, cả sự tiến hành của tầng ý thức bên ngoài lẫn bên trong, là thời gian tâm lýthời gian như hiểu biết, thời gian như trải nghiệm, thời gian như khoảng cách giữa cái gì là và cái gì nên là, thời gian như một phương tiện để đến, để thành công, để mãn nguyện, để trở thành. Cái trí tầng ý thức bên ngoài bị định hình bởi bên trong, và rất khó khăn khi muốn hiểu rõ những động cơ, những mục đích, và những ép buộc được che giấu của tầng ý thức bên trong, bởi vì chúng ta không thể tìm được đường vào tầng bên trong qua nỗ lực của ý thức bên ngoài. Nó phải được tiếp cận một cách tiêu cực, không phải bởi sự tiến hành tích cực của phân tích. Người phân tích bị quy định bởi những kỷ niệm của anh ấy, và sự tiếp cận tích cực của anh ấy đến cái gì đó mà anh ấy không biết và hoàn toàn không nhận thức được chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.

Tương tự như thế, chúng ta phải tiếp cận chết một cách tiêu cực, bởi vì chúng ta không biết nó là gì. Chúng ta đã trông thấy những người khác chết. Chúng ta biết có chết qua bệnh tật, tuổi già, và suy sụp, chết qua tai nạn, và chết với một mục đích, nhưng chúng ta thực sự không biết chết có nghĩa gì. Chúng ta có lẽ lý luận về chết. Khi thấy tuổi già ập vào chúng ta – lão suy từ từ, mất trí nhớ của chúng ta, và vân vânchúng ta có lẽ nói, “Ồ, sống là một qui trình của sanh, tăng trưởng, và suy sụp, và sự kết thúc của bộ máy vật chất là điều không tránh khỏi.” Nhưng điều đó không mang lại hiểu rõ sâu sắc về chết là gì.

Chết phải là cái gì đó lạ thường, giống như sống. Sống là một sự việc tổng thể. Đau khổ, đau đớn, phiền muộn, vui vẻ, những ý tưởng vô lý, chiếm hữu, ganh ghét, thương yêu. Sự đau khổ dày vò của cô độc – tất cả điều đó là sống. Và muốn hiểu rõ chết chúng ta phải hiểu rõ tổng thể của sống, không phải chỉ lấy một mảnh của nó và sống cùng mảnh đó, như hầu hết chúng ta đều làm. Trong ngay hiểu rõ về sống có hiểu rõ về chết, bởi vì sống chết không tách lìa.

Chúng ta không quan tâm đến những ý tưởng hay những niềm tin, bởi vì chúng không giải quyết được gì cả. Một người muốn biết chết có nghĩa gì, muốn thực sự trải nghiệm và biết ý nghĩa trọn vẹn của nó, phải ý thức được chết trong sống; đó là anh ấy phải chết hàng ngày. Thuộc thân thể, bạn không thể chết mỗi ngày, mặc dù có một thay đổi sinh lý đang xảy ra mỗi khoảnh khắc. Tôi đang nói về chết thuộc tâm lý, phía bên trong. Những sự việc chúng ta đã thâu lượm như trải nghiệm, như hiểu biết, những vui thú và những đau khổ chúng ta đã biết – chết đi tất cả việc đó.

Nhưng bạn thấy, hầu hết chúng ta không muốn chết. Bởi vì chúng ta mãn nguyện với sống của chúng ta. Và sống của chúng ta rất xấu xa; nó rất keo kiệt, ganh ghét, một xung đột liên tục. Sống của chúng ta là một đau khổ, với thỉnh thoảng những lóe sáng của hân hoan mà chẳng mấy chốc chỉ trở thành một kỷ niệm, và chết của chúng ta cũng là một đau khổ. Nhưng chết thực sự là thuộc tâm lý chết đi mọi thứ chúng ta biết – mà nghĩa là có thể đối diện ngày mai nhưng không biết ngày mai là gì. Đây không là một lý thuyết hay một niềm tin tưởng tượng. Hầu hết mọi người sợ hãi chết và vì vậy tin tưởng đầu thai, sống lại, hay bám vào hình thức nào đó của niềm tin. Nhưng một người thực sự muốn tìm ra chết là gì không quan tâm đến niềm tin. Chỉ tin tưởng là thiếu chín chắn. Muốn tìm ra chết là gì, bạn phải biết làm thế nào để chết phần tâm lý.

Tôi không hiểu liệu bạn đã có khi nào thử chết đi cái gì đó rất gần gũi với bạn và cho bạn vui thú cực độ – chết đi nó, không lý do, không buộc tội hay một mục đích, nhưng chỉ chết đi nó như một chiếc lá rụng khỏi cái cây. Nếu bạn có thể chết đi trong cách này mỗi ngày, từng phút, vậy thì bạn sẽ biết sự kết thúc của thời gian tâm lý. Và dường như đối với tôi, một cái trí chín chắn, một cái trí muốn thực sự tìm hiểu, chết trong ý nghĩa này là rất quan trọng. Bởi vì tìm hiểu không là tìm kiếm có một động cơ. Bạn không thể tìm ra cái gì là sự thật nếu bạn có một động cơ, hay nếu bạn bị quy định bởi một niềm tin, bởi một giáo điều. Bạn phải chết đi tất cả thứ đó – chết đi xã hội, chết đi tôn giáo có tổ chức, chết đi vô vàn hình thức của an toàn mà cái trí bám vào.

Những niềm tin và những giáo điều trao tặng sự an toàn tâm lý. Chúng ta thấy rằng thế giới đang trong một hỗn loạn; có sự hỗn loạn toàn cầu, và mọi thứ đang thay đổi rất mau lẹ. Bởi vì thấy tất cả việc này, chúng ta muốn cái gì đó lâu dài, vĩnh cửu, thế là chúng ta bám vào một niềm tin, một lý tưởng, một giáo điều, hình thức nào đó của an toàn tâm lý; và việc này ngăn cản chúng ta không thực sự tìm ra cái gì là sự thật.

Muốn khám phá cái gì đó mới mẻ, bạn phải đến với nó bằng một cái trí hồn nhiên, một cái trí trong sáng, tươi trẻ, không bị vấy bẩn bởi xã hội. Xã hội là cấu trúc tâm lý của ganh ghét, tham lam, tham vọng, quyền lực, thanh danh; và muốn tìm ra cái gì là sự thật, người ta phải chết đi toàn cấu trúc đó, không phải lý thuyết, không phải trừu tượng, nhưng thực sự chết đi ganh ghét, chết đi sự theo đuổi của “nhiều hơn.” Chừng nào còn có sự theo đuổi của “nhiều hơn” trong bất kỳ hình thức nào, không thể có sự hiểu rõ về những hàm ý vô cùng của chết. Tất cả chúng ta đều biết rằng chẳng chóng thì chầy chúng ta sẽ chết phần thân thể, rằng thời gian đang trôi qua, và rằng chết sẽ chộp lấy chúng ta; và, bởi vì sợ hãi, chúng ta sáng chế những lý thuyết, chúng ta xếp đặt những ý tưởng về chết, chúng ta lý luận nó. Nhưng đó không là sự hiểu rõ về chết.

 Bạn không thể tranh luận với chết phần thân thể; bạn không thể yêu cầu chết cho bạn sống một ngày nữa. Chết là kết thúc tuyệt đối. Và liệu không thể chết đi ganh ghét trong cùng cách, không tranh luận, không hỏi việc gì sẽ xảy đến cho bạn ngày mai nếu bạn chết đi ganh ghét, hay tham vọng? Thật ra, điều này có nghĩa hiểu rõ toàn qui trình của thời gian tâm lý.

Chúng ta luôn luôn suy nghĩ trong thời hạn của thời gian, phần tâm lý đang lập kế hoạch cho ngày mai. Tôi không đang nói về kế hoạch thực tế; đó là vấn đề hoàn toàn khác hẳn. Nhưng phần tâm lý chúng ta muốn là cái gì đó ngày mai. Cái trí ranh mãnh theo đuổi điều gì nó đã là và điều gì nó sẽ là, và sống của chúng ta được xây dựng trên theo đuổi đó. Chúng ta là kết quả của ký ức của chúng ta, ký ức là thời gian tâm lý. Và liệu có thể không cần nỗ lực, rất thanh thản, chết đi toàn qui trình đó?

Tất cả các bạn đều muốn chết đi cái gì đó gây đau khổ, và việc đó tương đối dễ dàng. Nhưng tôi đang nói về chết đi cái gì đó mà cho bạn vui thú lớn lao, một ý thức vô cùng của sự phong phú bên trong. Nếu bạn chết đi ký ức của một trải nghiệm hưng phấn, chết đi những tầm nhìn của bạn, chết đi những hy vọng và những mãn nguyện của bạn, lúc đó bạn bị giáp mặt một ý thức lạ thường của cô độc, và bạn không còn gì để bấu víu nữa. Những nhà thờ, những quyển sách, những vị thầy, những hệ thống triết học – bạn không thể tin cậy bất kỳ điều gì trong chúng nữa, mà là thực hiện đúng nhất, bởi vì nếu bạn tin cậy chúng, bạn vẫn còn sợ hãi, bạn vẫn còn ganh ghét, tham lam, tham vọng, tìm kiếm quyền hành.

Bất hạnh thay, khi chúng ta không tin cậy bất kỳ điều gì, thường thường chúng ta trở nên cay đắng, yếm thế, thiển cận, và rồi chúng ta chỉ sống từ ngày này qua ngày khác, nói rằng việc đó đủ rồi. Nhưng dù cái trí có lẽ lanh lợi và triết lý bao nhiêu, việc đó tạo ra một sống rất nông cạn và nhỏ nhen. Tôi không hiểu liệu bạn đã từng thử việc này, nếu bạn đã từng thử nghiệm nó: không cần nỗ lực chết đi mọi thứ mà bạn biết, không giả dối nhưng thực sự, mà không hỏi điều gì sẽ xảy ra vào ngày mai. Nếu bạn thực hiện được việc này, bạn sẽ đến một ý thức lạ thường của cô độc, một trạng thái của trống không nơi không có ngày mai – và nếu bạn rà soát nó, nó không là trạng thái vô vọng ảm đạm. Trái lại!

Rốt cuộc, hầu hết chúng ta đều cô độc kinh khủng. Bạn có lẽ có một nghề nghiệp lý thú, bạn có lẽ có một gia đình và nhiều tiền bạc, bạn có lẽ có sự hiểu biết rộng rãi của một cái trí có học thức; nhưng nếu bạn xua đuổi đi tất cả điều đó khi bạn ở một mình, bạn sẽ biết ý thức lạ thường của cô độc này.

Nhưng bạn thấy, tại một khoảnh khắc như thế chúng ta trở nên rất kinh hoàng. Chúng ta không bao giờ đối diện cô độc đó; chúng ta không bao giờ rà soát trống không đó để phát giác nó là gì. Chúng ta bật máy thu thanh, đọc một quyển sách, huyên thuyên với bạn bè, đi nhà thờ, đi xem phim, uống rượu – tất cả việc đó đều cùng một mức độ, bởi vì tất cả chúng đều trao tặng một tẩu thoát. Thượng đế là một tẩu thoát vui vẻ, giống như nhậu nhẹt. Khi cái trí đang tẩu thoát, không có nhiều khác biệt giữa Thượng đế và nhậu nhẹt. Có lẽ theo xã hội, nhậu nhẹt không tốt lắm, nhưng sự tẩu thoát đến Thượng đế cũng có phương hại của nó.
Vậy là, muốn hiểu rõ chết, không phải bằng lời nói hay lý thuyết nhưng thực sự trải nghiệm nó, người ta phải chết đi ngày hôm qua, chết đi tất cả những kỷ niệm của người ta, những vết thương tâm lý của người ta, nịnh nọt, lăng nhục, nhỏ nhen, ganh ghét – người ta phải chết đi tất cả việc đó, mà là chết đi chính người ta. Bởi vì tất cả việc đó là người ta. Và vậy là bạn sẽ tìm ra, nếu bạn đã tiến xa như thế, rằng có một cô đơn mà không phải là cô độc. Cô độccô đơn là hai trạng thái khác hẳn. Nhưng bạn không thể thẩm thấu cô đơn nếu không rà soát và hiểu rõ trạng thái cô độc đó mà trong nó sự liên hệ không còn ý nghĩa gì cả. Liên hệ của bạn với người vợ của bạn, với người chồng của bạn, với người con trai của bạn, với người con gái của bạn, bạn bè của bạn, công việc của bạn – không có điều gì trong những liên hệ này còn ý nghĩa gì cả khi bạn cô độc trọn vẹn. Tôi chắc chắn một số các bạn đã trải nghiệm trạng thái đó. Và khi bạn có thể rà soát nó và vượt khỏi nó, khi bạn không còn bị kinh hãi bởi từ ngữ cô độc đó, khi bạn chết đi tất cả những sự việc bạn đã biết, và xã hội không còn tác động bạn nữa, lúc đó bạn sẽ biết cái khác lạ. Xã hội tác động bạn chỉ khi nào bạn còn lệ thuộc vào nó phần tâm lý. Xã hội không còn gây ảnh hưởng vào bạn gì cả từ khoảnh khắc bạn cắt đứt mấu chốt tâm lý mà cột chặt bạn vào nó. Vậy là bạn ra khỏi những quy định của sự kính trọngluân lý thuộc xã hội. Nhưng để rà soát cô độc đó mà không tẩu thoát, mà không giải thích bằng từ ngữ, mà ở cùng nó trọn vẹn, đòi hỏi nhiều năng lượng. Bạn cần năng lượng để sống cùng cái gì đó xấu xa nhưng không cho phép nó làm hư hỏng bạn, giống như bạn cần năng lượng để sống cùng cái gì đó đẹp đẽ nhưng không thân thuộc với nó. Năng lượng không vấy bẩn đó là cô đơn mà bạn phải đến.

Và từ tiêu cực đó, từ trống không trọn vẹn đó, có sáng tạo. Chắc chắn tất cả sáng tạo đều xảy ra trong trống không, không phải khi cái trí của bạn đầy ắp. Chết có ý nghĩa chỉ khi nào bạn chết đi tất cả những ảo tưởng của bạn, những giả tạo của bạn, chết đi vô vàn hồi tưởng của bạn. Vậy là có cái gì đó vượt khỏi thời gian, cái gì đó bạn không thể tiếp cận nếu bạn có sợ hãi, nếu bạn bấu víu những niềm tin, nếu bạn bị trói buộc trong đau khổ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10192)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11249)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13592)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13743)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22217)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21875)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27389)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17779)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11740)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12331)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25248)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23284)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28584)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22772)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25716)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22306)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13992)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13436)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22479)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26390)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18484)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18964)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34513)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27387)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28426)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21387)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14900)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19218)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10620)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18575)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15665)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13187)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13423)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14028)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11793)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11634)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11343)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11898)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19946)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12398)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13942)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13274)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31983)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13437)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12758)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13333)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11905)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21870)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11097)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12902)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant