Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Sợ hãi chết

08 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 4793)
1. Sợ hãi chết

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ SỐNG VÀ CHẾT (ON LIVING and DYING)
Lời dịch: Ông Không 2009

Từ quyển Bình phẩm về sống
Tập 2

Sợ hãi chết

Trên mặt đất đỏ sậm trước ngôi nhà có vô số hoa loa kèn với nhụy vàng. Chúng có những cánh lớn màu hoa cà và một mùi hương thoang thoảng. Chúng sẽ trải ra trong suốt ban ngày, nhưng vào ban đêm chúng che kín mặt đất đỏ sậm. Dây của hoa bò lan tràn cứng cáp với những chiếc lá răng cưa lấp lánh trong ánh ban mai. Vài đứa trẻ vô ý chà đạp những bông hoa, và một người đàn ông vội vã chun vào chiếc xe hơi của ông ấy chẳng bao giờ thèm bận tâm liếc nhìn chúng. Một người qua đường hái một bông hoa, ngửi nó, và mang nó theo, để vất đi chốc lát sau. Một phụ nữ chắc là người giúp việc ra khỏi nhà, hái một bông hoa, và cắm nó trong mái tóc của cô ấy. Những bông hoa đó đẹp làm sao, và chúng cũng đang héo tàn mau lẹ làm sao dưới ánh mặt trời!

Tôi luôn luôn bị ám ảnh bởi một loại sợ hãi nào đó. Khi còn là một đứa trẻ tôi rất nhút nhát, thẹn thùng, và nhạy cảm, và bây giờ tôi sợ hãi cả tuổi già lẫn chết. Tôi biết tất cả chúng ta đều phải chết, nhưng dường như chẳng lý luận nào làm vơi bớt đi sợ hãi này. Tôi đã gia nhập tổ chức nghiên cứu ngoại cảm (the Psychical Research Society), đã tham dự vài buổi cầu đồng, và đã đọc sách của những vị thầy vĩ đại giải thích chết như thế nào; nhưng sợ hãi về nó vẫn còn đó. Thậm chí tôi đã thử qua sự phân tích tâm lý, nhưng việc đó cũng chẳng giúp ích gì cả. Sợ hãi này đã trở thành một vấn đề nặng nề cho tôi; tôi thức giấc nửa đêm bởi những giấc mơ kinh hoàng, và tất cả chúng trong cách này hay cách khác đều liên quan đến chết. Tôi sợ hãi lạ lùng về bạo lực và chết. Chiến tranh là một ác mộng liên tục của tôi, và lúc này tôi thực sự rất bứt rứt. Nó không phải là một loạn thần kinh, nhưng tôi có thể hiểu rằng nó có lẽ trở thành một căn bệnh như thế. Tôi đã làm mọi việc có thể được để kiểm soát sợ hãi này; tôi đã cố gắng chạy trốn nó, nhưng khi chấm dứt sự chạy trốn của tôi tôi đã không thể tống khứ nó đi được. Tôi đã theo dõi vài bài giảng khá ngô nghê về chủ đề tái sanh, và trong chừng mực nào đó đã tìm hiểu triết lý của Phật giáoẤn độ giáo trình bày về nó. Nhưng tất cả việc này đã không giải đáp thỏa mãn, ít nhất đối với tôi. Tôi không phải sợ hãi hời hợt, nhưng có một sợ hãi về nó rất sâu thẳm.” 

Bạn tiếp cận tương lai, ngày mai, chết như thế nào? Bạn đang cố gắng tìm ra sự thật của vấn đề, hay bạn đang tìm kiếm sự bảo đảm, một khẳng định gây thỏa mãn về vấn đề liệu có sự tiếp tục hay hủy diệt của tâm hồn lẫn thể xác? Bạn cần sự thật hay một trả lời an ủi?

 “Khi ông đưa ra những câu hỏi như thế, tôi thực sự không hiểu tôi đang sợ hãi cái gì, nhưng sợ hãi không những hiện diện ở đó mà còn rất khẩn cấp.”

Vấn đề của bạn là gì? Bạn muốn được tự do khỏi sợ hãi, hay bạn đang tìm kiếm sự thật liên quan đến chết?

Ông có ý gì qua cụm từ sự thật liên quan đến chết?”

Chết là một sự kiện không thể tránh khỏi; dù bạn làm bất kỳ việc gì, chết không thể hủy bỏ, dứt khoát, và thực sự. Nhưng bạn muốn biết sự thật về cái gì vượt khỏi chết phải không?

Mọi sự việc tôi đã tìm hiểu và vài hiện tượng được cụ thể hóa mà tôi đã trông thấy tại những buổi cầu đồng khẳng định chắc chắn rằng có loại tiếp tục nào đó sau khi chết. Tư tưởng trong hình thức nào đó tiếp tục, mà chính ông đã xác nhận. Giống như việc phát ra những bài hát, những từ ngữ và những hình ảnh đòi hỏi một vật thâu nhận ở đầu bên kia, vì vậy tư tưởngtiếp tục sau khi chết cần có một dụng cụ qua đó nó có thể tự diễn tả. Dụng cụ có lẽ là một người đồng cốt hay tư tưởng có lẽ tự tạo hình hài qua một bộ dạng khác. Tất cả việc này đều khá rõ ràng và có thể được trải nghiệm lẫn hiểu rõ: nhưng mặc dù tôi đã đào sâu vấn đề này rất kỹ càng, vẫn còn có một sợ hãi vô cùng mà tôi nghĩ có liên quan đến chết.”

Chết là điều không thể tránh khỏi. Liên tục có thể được kết thúc, hay nó có thể được nuôi dưỡngduy trì. Cái có tính liên tục không bao giờ có thể tự làm mới mẻ cho nó. Nó không bao giờ có thể là cái mới mẻ; nó không bao giờ có thể hiểu rõ cái không biết được. Liên tụcthời kỳ kéo dài liên tiếp, và cái liên tục không là cái không thời gian. Qua thời gian, thời kỳ liên tục, cái không thời gian không hiện diện. Phải có kết thúc cho cái mới mẻ hiện diện. Cái mới mẻ không ở trong sự liên tục của tư tưởng. Tư tưởng là chuyển động liên tục trong thời gian; chuyển động này không thể tự bao bọc trong nó một trạng thái tồn tại không thời gian. Tư tưởng được thành lập trên quá khứ; sự tồn tại của nó thuộc thời gian. Thời gian không chỉ là tuần tự theo đồng hồ nhưng nó cũng được hiểu như một chuyển động của quá khứ qua hiện tại đến tương lai; nó là chuyển động của ký ức, của từ ngữ, hình ảnh, biểu tượng, ghi lại, lặp lại. Tư tưởng, ký ức có tánh liên tục qua từ ngữ và lặp lại. Kết thúc của tư tưởng là khởi đầu của cái mới mẻ; chết của tư tưởng là sống vĩnh hằng. Phải có kết thúc liên tục cho cái mới mẻ hiện diện. Cái mới mẻ không có tánh liên tục; cái mới mẻ không bao giờ có thể ở trong lãnh vực của thời gian. Cái mới mẻ chỉ trong chết từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc. Phải có chết hàng ngày cho cái mới mẻ hiện diện. Kết thúc là khởi đầu, nhưng sợ hãi ngăn cản kết thúc.

Tôi biết tôi có sợ hãi, và tôi không biết cái gì vượt khỏi nó.”

Chúng ta có ý gì qua từ ngữ sợ hãi? Sợ hãi là gì? Sợ hãi không là một trừu tượng; nó không tồn tại độc lập, trong cô lập. Nó hiện diện chỉ trong liên hệ với cái gì đó. Trong qui trình của liên hệ sợ hãi tự thể hiện; không có sợ hãi tách rời liên hệ. Bây giờ bạn sợ hãi cái gì? Bạn nói rằng bạn sợ hãi chết. Chúng ta có ý gì qua từ ngữ chết? Mặc dù chúng ta có những lý thuyết, những giả thuyết, và có những sự kiện có thể quan sát được nào đó, chết vẫn còn là cái không biết được. Dù chúng ta có lẽ biết về nó nhiều chừng nào chăng nữa, chết không thể được mang vào lãnh vực của cái đã được biết; chúng ta tạo mọi điều kiện đáp ứng để níu kéo nó, nhưng nó không đồng ý. Liên kết là cái đã được biết, và cái không biết được không thể bị quyến rũ để trở thành thân thiết; thói quen không thể cám dỗ nó, vì vậysợ hãi.

Liệu cái đã được biết, cái trí có thể hiểu rõ hay ôm ấp cái không biết được? Bàn tay duỗi dài chỉ có thể thâu nhận cái có thể biết được; nó không thể nắm được cái không thể biết được. Ham muốn trải nghiệm là trao tặng sự liên tục cho tư tưởng; ham muốn trải nghiệm là trao tặng sức mạnh cho quá khứ; ham muốn trải nghiệm là giúp cho cái đã được biết. Bạn muốn trải nghiệm chết, đúng chứ? Mặc dù đang sống, bạn muốn biết chết là gì. Nhưng bạn không biết đang sống là gì phải không? Bạn chỉ biết sống như xung đột, hỗn loạn, thù địch, vui sướng qua nhanh và đau khổ. Nhưng đó là sống hay sao? Đấu tranh và đau khổ là sống à? Trong trạng tháichúng ta gọi là sống này chúng ta muốn trải nghiệm cái gì đó không ở trong lãnh vực hiểu biết riêng của chúng ta. Đau khổ này, đấu tranh này, hận thù mà bao bọc trong vui sướng, là điều gì chúng ta gọi là sống; và chúng ta muốn trải nghiệm cái gì đó đối nghịch điều chúng ta gọi là sống. Đối nghịch là sự tiếp tục của cái gì là, có lẽ được bổ sung. Nhưng chết không là đối nghịch. Nó là cái không biết được. Cái có thể biết được khao khát trải nghiệm chết, cái không biết được; nhưng, dù làm gì chăng nữa, nó không thể trải nghiệm chết. Vậy là nó bị sợ hãi; đó là như thế phải không?

 “Ông đã giải thíchrõ ràng. Nếu tôi có thể biết hay trải nghiệm chết là gì trong khi sống, vậy là chắc chắn sợ hãi sẽ kết thúc.”

Bởi vì bạn không thể trải nghiệm chết, bạn sợ hãi nó. Liệu ý thức có thể trải nghiệm trạng thái đó mà không thể được đưa vào lãnh vực của ý thức? Cái có thể trải nghiệm được là sự chiếu rọi của ý thức, cái đã được biết. Cái đã được biết chỉ có thể trải nghiệm cái đã được biết; trải nghiệm luôn luôn ở trong lãnh vực của cái đã được biết; cái đã được biết không thể trải nghiệm cái gì vượt khỏi lãnh vực của nó. Đang trải nghiệm hoàn toàn khác hẳn trải nghiệm. Đang trải nghiệm không ở trong lãnh vực của người trải nghiệm. Nhưng khi đang trải nghiệm mờ dần, người trải nghiệm và vật được trải nghiệm hiện diện, và thế là đang trải nghiệm được đưa vào lãnh vực của ý thức. Người biết, người trải nghiệm, khao khát trạng thái đang trải nghiệm cái không biết được; và bởi vì người trải nghiệm, người biết, không thể thâm nhập trạng thái đang trải nghiệm, anh ấy bị sợ hãi. Anh ấy là sợ hãi, anh ấy không tách khỏi nó. Người trải nghiệm về sự sợ hãi không là một người quan sát về nó; anh ấy là chính sự sợ hãi, chính sự phát khởi của sợ hãi.

Ông có ý gì qua từ ngữ sợ hãi? Tôi biết tôi sợ hãi chết. Tôi không cảm thấy rằng tôi là sợ hãi, nhưng tôi sợ hãi về cái gì đó. Tôi sợ hãi và tách khỏi sự sợ hãi. Sợ hãi là một cảm giác riêng biệt hẳn cái “tôi” đang quan sát nó, đang phân tích nó. Tôi là người quan sát, và sợ hãi là vật được quan sát. Làm thế nào người quan sát và vật được quan sát có thể là một?”

Bạn nói rằng bạn là người quan sát và sự sợ hãi là vật được quan sát. Nhưng đó là như thế sao? Bạn là thực thể tách khỏi những phẩm chất của bạn sao? Bạn không giống hệt những phẩm chất của bạn à? Bạn không là những phẩm chất, những suy nghĩ của bạn, và vân vân? Bạn không tách khỏi những phẩm chất, những suy nghĩ của bạn. Bạn là những suy nghĩ của bạn. Tư tưởng tạo ra cái “bạn,” thực thể giả sử tách rời, nếu khôngtư tưởng, người suy nghĩ không còn. Bởi vì nhìn thấy sự tạm thời của chính nó, tư tưởng sáng chế người suy nghĩ, cái vĩnh cửu, cái cố định; và sau đó người suy nghĩ trở thành người trải nghiệm, người phân tích, người quan sát tách khỏi cái ngắn ngủi. Tất cả chúng ta thèm khát loại vĩnh cửu nào đó, và bởi vì nhìn thấy sự tạm thời quanh quanh chúng ta, tư tưởng sáng chế người suy nghĩ, mà tưởng là vĩnh cửu. Sau đó người suy nghĩ tiến hành thiết lập những trạng thái vĩnh cửu cao hơn và khác hẳn: linh hồn, cái ngã, cái tôi cao hơn, và vân vân. Tư tưởng là nền tảng của toàn cấu trúc này. Nhưng đó là một vấn đề khác. Chúng ta quan tâm đến sợ hãi. Sợ hãi là gì? Chúng ta hãy xem thử nó là gì.

Bạn nói bạn sợ hãi chết. Bởi vì bạn không thể trải nghiệm nó, bạn sợ hãi nó. Chết là cái không biết được, và bạn sợ hãi cái không biết được. Đó là như thế phải không? Bây giờ, bạn có thể sợ hãi cái bạn không biết sao? Nếu cái gì đó không biết được đối với bạn, làm thế nào bạn có thể sợ hãi nó? Bạn thực sự không sợ hãi cái không biết được, chết, nhưng sợ hãi mất đi cái đã được biết, bởi vì việc đó có lẽ gây ra đau khổ, hay tước đoạt vui thú của bạn, thỏa mãn của bạn. Chính cái đã được biết gây ra sự sợ hãi, không phải cái không biết được. Làm thế nào cái không biết được có thể gây ra sự sợ hãi? Nó không thể đo lường dựa vào vui thú và đau khổ: nó là không biết được.

Sợ hãi không thể tồn tại một mình; nó xảy ra trong liên hệ với cái gì đó. Thực ra bạn sợ hãi cái không biết được khi liên quan đến chết, đúng chứ? Bởi vì bạn bấu víu cái không biết được, bấu víu một trải nghiệm, bạn sợ hãi tương lai có lẽ là gì. Nhưng “cái gì có lẽ là”, tương lai, chỉ là một phản ứng, một phỏng đoán, đối nghịch của cái gì là. Đây là như thế, phải không?

 “Điều đó có vẻ đúng.”

Và bạn biết cái gì là không? Bạn hiểu rõ nó chứ? Bạn đã mở cái tủ của cái đã được biết và nhìn nó chưa? Bạn cũng không sợ hãi cái gì bạn có lẽ khám phá ở đó sao? Bạn chưa từng tìm hiểu cái đã được biết, tìm hiểu cái gì bạn sở hữu à?

Không, tôi chưa từng. Tôi luôn luôn quen thuộc với cái đã được biết. Tôi đã chấp nhận quá khứ như người ta chấp nhận ánh sáng mặt trời hay mưa. Tôi chưa bao giờ suy xét về nó; người ta hầu như không ý thức được nó, bởi vì người ta là cái bóng của người ta. Lúc này bởi vì ông đề cập đến nó, tôi nghĩ rằng tôi cũng sợ hãi phải tìm ra cái gì có lẽ ở đó.”

Không phải hầu hết chúng ta đều sợ hãi phải nhìn thấy chính chúng ta hay sao? Chúng ta có lẽ phát giác những sự việc khó chịu, vì vậy tốt hơn chúng ta không nên nhìn thấy. Chúng ta thích không biết về cái gì là hơn. Chúng ta sợ hãi không những về cái gì có lẽ là trong tương lai mà còn về cái gì có lẽ là trong hiện tại. Chúng ta sợ hãi phải biết chính chúng ta như chúng ta là, và sự lẩn tránh cái gì là này đang làm cho chúng ta sợ hãi cái gì có lẽ là. Chúng ta tiếp cận cái tạm gọi là đã được biết bằng sợ hãi, và cũng thế với cái không biết được, chết. Lẩn tránh cái gì là là ham muốn cho sự thỏa mãn. Chúng ta đang tìm kiếm an toàn, liên tục đang đòi hỏi rằng sẽ không có phiền muộn. Và chính ham muốn không bị phiền muộn này làm cho chúng ta lẩn tránh cái gì là và sợ hãi cái gì có lẽ là. Sợ hãi là không biết cái gì là, và sống của chúng ta bị lãng phí trong một trạng thái sợ hãi liên tục.

Nhưng làm thế nào người ta có thể loại bỏ sợ hãi này?”

Muốn loại bỏ cái gì đó, bạn phải hiểu rõ nó. Liệu có sợ hãi, hay chỉ là ham muốn để không thấy? Chính ham muốn để không thấy mang lại sợ hãi; và khi bạn không muốn hiểu rõ ý nghĩa đầy đủ của cái gì là, sợ hãi hành động như một ngăn ngừa. Bạn có thể sống một cuộc sống thỏa mãn bằng cách cố ý lẩn tránh tìm hiểu cái gì là, và nhiều người làm việc này; nhưng họ không có hạnh phúc, cũng giống như những người tự làm khuây khỏa họ bằng sự tìm hiểu hời hợt. Chỉ những người nghiêm túc trong tìm hiểu của họ có thể ý thức được trạng thái hạnh phúc; cho riêng họ, một mình, có tự do khỏi sợ hãi.

Vậy thì làm thế nào người ta sẽ hiểu rõ cái gì là?”

Cái gì là sẽ được thấy trong cái gương của liên hệ, liên hệ với tất cả sự việc sự vật. Cái gì là không thể được hiểu rõ trong rút lui, trong cô lập; nó không thể được hiểu rõ nếu có người giải thích, người truyền đạt mà phủ nhận hay chấp nhận. Cái gì là có thể được hiểu rõ chỉ khi nào cái trí tuyệt đối thụ động, khi nó không đang vận hành trên cái gì là.

 “Không cực kỳ khó khăn để ở trong trạng thái tỉnh thức thụ động hay sao?”
Khó chứ, chừng nào còn có tư tưởng
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10184)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11234)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13572)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13713)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22181)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21841)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27352)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17766)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11722)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12316)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25237)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23261)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28561)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22756)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25671)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22274)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13982)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13421)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22444)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26337)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18453)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18949)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34481)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27348)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28376)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21358)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14879)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19191)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10613)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18559)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15658)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13174)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13415)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14016)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11785)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11624)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11336)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11882)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19935)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12389)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13936)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13268)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31937)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13426)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12747)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13322)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11878)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21848)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11085)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12890)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant