Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 19 – Tự do và Cánh đồng

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9491)
Đối thoại 19 – Tự do và Cánh đồng

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

Madras, 1971

Đối thoại 19

TỰ DO VÀ CÁNH ĐỒNG 

Madras, ngày 16 tháng 1 năm 1971

N

gười hỏi A: Anh đã nói chính những tế bào não bị quy định bởi quá khứ, quá khứ thuộc sinh học và lịch sử, và anh đã nói cấu trúc của những tế bào não có thể thay đổi. Liệu chúng ta có thể thâm nhập điều đó? Dường như những tế bào não có một hoạt động của riêng chúng?

Krishnamurti: Sáng nay tôi sẽ thâm nhập liệu có khi nào những người chuyên môn đã nói về những tế bào não.

R: Những triết gia Ấn độ không đề cập đến những tế bào não.

Krishnamurti: Tại sao? Có phải khi họ nói về cái trí, họ bao gồm cả những tế bào não?

A: Họ nói cái trí là vật chất. Họ không thâm nhập thêm nữa.

Krishnamurti: Mọi thứ được ghi lại trong những tế bào não. Mọi biến cố, mọi ấn tượng được khắc sâu trong bộ não; người ta có thể quan sát vô số những ấn tượng trong chính người ta. Bạn đang hỏi làm thế nào vượt khỏi, khiến cho những tế bào não yên lặng?

A: Thông thường anh sẽ nghĩ rằng bộ não là một dụng cụ của mảnh trí năng.

Krishnamurti: Nhưng liệu mảnh trí năng không là dụng cụ của bộ não thay vì cách ngược lại?

A: Như thế à?

Krishnamurti: Chúng ta hãy thâm nhập nó. Khả năng để lý luận, để so sánh, để cân nhắc, để nhận xét, để hiểu rõ, để giải thích, để hành động, tất cả đều là bộ phận của ký ức. Mảnh trí năng hình thành những ý tưởng và từ đó có hành động.

A: Quan điểm thuộc vật chất là rằng, sự suy nghĩ liên quan đến bộ não giống như mật liên quan đến gan như thế nào và rằng sự thể hiện thuộc hiện tượng là kết quả của chuyển động của cái không-hiện tượng. Điều gì những người truyền thống nói là, có sự kết thúc hoàn toàn của bộ não khi chết, nhưng sự kết thúc hoàn toàn của bộ não để lại, trong một cách tinh tế, một cặn bã.

Krishnamurti: Một suy nghĩ?

A: Cặn bã tồn tại một cách độc lập khỏi bộ não mà đã trở nên chết rồi. Vì vậy nó tạo ra một tập trung khác. Từ hoạt động của nó, cái gì mới mẻ nổi lên.

Krishnamurti: Những tế bào não là kho lưu trữ của ký ức. Phản ứng của ký ức là sự suy nghĩ. Sự suy nghĩ có thể độc lập khỏi ký ức. Giống như quăng một hòn đá mà độc lập khỏi bàn tay ném nó. Liệu sự suy nghĩ đó tạo hình hài khác là một vấn đề khác.

A: Tôi có một cái ca đầy nước; tôi đổ nước vào cái xô và sau đó tôi lấy nước ra lại. Nó khác biệt với nước tôi đã đổ vào, nó không giống như nước tôi đã đổ vào.

Krishnamurti: Điều này tương đối dễ dàng. Bạn đang cố gắng nói gì?

R: Những tế bào não và hoạt động của chúng không là cái nguồn cơ bản của tất cả chuyển động giả dối này.

A: Anh mang chúng tôi đến hành động. Lúc này, chúng tôi luôn luôn bị dính dáng trong hoạt động. Trong bàn luận cùng anh, chúng tôi thấy hoạt động dẫn đến sự ma mãnh. Thấy điều này là sự khởi đầu của hành động. Liệu chúng ta sẽ sử dụng nó tại mức độ của những tế bào não hay tại mức độ của cặn bã; cặn bã mà châm ngòi cho hoạt động của bộ não?

R: Sự diễn tả truyền thống là: tôi ăn bằng bàn tay của tôi. Có một mùi của thức ăn. Tôi rửa bàn tay của tôi, cái mùi vẫn còn đó. Vì vậy trải nghiệm trong suốt sống để lại một ấn tượng cặn bã. Thân thể chết đi nhưng một loại mùi vị nào đó của trải nghiệm vẫn còn lại mà tìm kiếm nhiều trải nghiệm hơn.

A: Anh đang nói chính mảnh trí năng là kết quả của hoạt động của bộ não. Nhưng với mảnh trí năng tôi thấy những tích lũy của quá khứ, như ký ức, đã lưu lại trên tôi sự ảnh hưởng gì. Thậm chí khi mảnh trí năng thấy điều này, hoạt động của những tế bào não đang chuyển động.

Krishnamurti: Liệu bạn đang cố gắng nói rằng những tế bào não luôn luôn đang thâu nhận; chúng luôn luôn đang ghi lại, trong trạng thái ngủ cũng như trong trạng thái thức. Ghi lại đó là một chuyển động độc lập. Chuyển động độc lập đó tạo ra khả năng để suy nghĩ, để lý luận. Vì vậy, mảnh trí năng có thể quan sát sự vận hành của chuyển động thuộc sự suy nghĩ. Nó có thể quan sát làm thế nào sự suy nghĩ đã tự tạo ra chính nó. Và lại nữa đó là thành phần thuộc toàn cấu trúc của những tế bào não. Câu hỏi là gì?

A: Làm thế nào cấu trúc của những tế bào não sẽ thay đổi?

Krishnamurti: Đó là một vấn đề hoàn toàn khác hẳn. Những tế bào não luôn luôn đang ghi lại – nhận biết, thiết kế, màu sắc, mọi thứ đang được ghi lại. Một yếu tố đảm đương một quan trọng khác thường. Và những tế bào não này, luôn luôn đang thâu nhận những ấn tượng, một cách có ý thức hay không ý thức, đang xây dựng khả năng để suy nghĩ, để lý luận. Dụng cụ của sự lý luận này là mảnh trí năng. Hai cái không tách rời.

A: Nếu không có mảnh trí năng, liệu sẽ có sự lý luận? 

Krishnamurti: Liệu mảnh trí năng độc lập khỏi những tế bào não? Liệu khả năng để lý luận độc lập khỏi những tế bào não hay bởi vì là một bộ phận của chúng, liệu nó có khi nào được độc lập? Bạn không thể lý luận một cách độc lập, bởi vì những tế bào não và mảnh trí năng là bộ phận của nguyên nhân-hậu quả. Và liệu mảnh trí năng có thể quan sát được nền tảng của ký ức, mà là bộ não?

 Tôi tin rằng những người khoa học hiện đại đang cố gắng tách rời những tế bào khác nhau mà chứa đựng những kỷ niệm và thâm nhập những tế bào, nghiên cứu theo sinh học. Bạn có thể làm điều đó dưới kính hiển vi và nếu mảnh trí năng là sản phẩm của bộ não, mảnh trí năng phải luôn luôn bị quy định bởi ký ức, bởi hiểu biết. Nó có thể chiếu rọi rất xa nhưng nó vẫn còn bị trói buộc. Mảnh trí năng có thể tìm kiếm tự do, nhưng nó không bao giờ có thể tìm được tự do. Nó có thể được tự do chỉ trong bán kính của sự trói buộc riêng của nó; nó bị giới hạn trong chính nó. Và tự do phải vượt khỏi khả năng trí năng này, phải là cái gì đó bên ngoài cánh đồng.

 Lúc này, cái gì nhận biết được toàn hiện tượng này, rằng mảnh trí năng không bao giờ có thể được tự do? Nó có thể nghĩ nó được tự do và nó có thể chiếu rọi một ý tưởng, nhưng nó không là tự do bởi vì nó là sản phẩm của những tế bào não mà là cặn bã của ký ức.

 Cái gì nhận biết rằng, mảnh trí năng không thể vượt khỏi phạm vi thuộc bán kính riêng của nó? Tôi không biết liệu bạn hiểu rõ câu hỏi?

A: Chính mảnh trí năng có thể nhận biết điều này.

Krishnamurti: Tôi không biết. Tôi đang hỏi.

R: Mảnh trí năng là một mảnh.

Krishnamurti: Không có tự do bên trong cánh đồng. Vì vậy mảnh trí năng nói, phải có tự do bên ngoài cánh đồng. Điều đó vẫn còn là qui trình lý luận, và thế là sự tìm kiếm phía bên ngoài của nó vẫn còn ở bên trong cánh đồng. Vậy thì cái gì nhận biết được tổng thể cánh đồng? Liệu nó vẫn còn là qui trình lý luận.

A: Không.

Krishnamurti: Tại sao không? Nó không còn là qui trình lý luận, hay sao? Người ta nói rằng những tế bào não là cái máy ghi lại. Chúng đang ghi lại mọi thứ. Sự ghi lại đó đã tạo ra một dụng cụ mà là khả năng để thâm nhập, để theo dõi, để phê bình, mà bạn có thể gọi nó là mảnh trí năng. Sau đó mảnh trí năng tìm kiếm tự do phía bên ngoài chính nó. Nó thấy rằng không thể có tự do bên trong cánh đồng và tự do đó là ở phía bên ngoài. Vì vậy nó nghĩ nó chuyển động phía bên ngoài cánh đồng của chính nó. Sau khi đã nói như thế, điều gì xảy ra? Nó thấy rằng bất kỳ chuyển động nào nó thực hiện vẫn còn bên trong cánh đồng. Bất kỳ chuyển động nào bắt nguồn từ nó vẫn còn bên trong cánh đồng; mở rộng cánh đồng theo phương ngang hay phương dọc nhưng nó vẫn còn bên trong cánh đồng. Vì vậy nó luôn luôn ở trong một ngục tù.

 Mảnh trí năng thấy điều đó, quan sát điều đó, thâm nhập điều đó. Lúc này bạn đang hỏi làm thế nào những tế bào não sẽ thay đổi? Thâm nhập đi.

 Đây là chuyển động mà con người đã bị trói buộc. Và bởi vì không biết làm thế nào để thoát khỏi nó, anh ấy đã sáng chế ra cái tinh thần vũ trụ.

 

A: Những người Phật giáo nói qui trình này mà đã hiện diện bởi một nguyên nhân, có một kết thúc và sự nhận biết của nó là một kết thúc-chết.

 Phật giáo khẳng định rằng sự nhận biết của một kết thúc-chết (họ sử dụng từ ngữ pudgala) là thấy rằng, trong cái này không có sự vĩnh cửu, và rằng tái sinh là sự tái sinh của sự dốt nát của qui trình này. Vì vậy khi anh quan sát qui trình này như không-vĩnh cữu, lúc đó tuyệt đối nó phải tạo ra sự không quyến luyến đến qui trình này. Tất cả mọi điều được giải thích cho anh là thấy sự không-vĩnh cữu, và bởi vì thấy điều này, không còn sự quyến luyến đến điều này, và đây là kết thúc-chết. Hãy suy ngẫm điều này.

 Phật đã thấy chỉ một lần – bệnh tật, tuổi già và chết. Khi thấy nó một lần, ngài không bao giờ quay lại. Cậu trai Krishnamurti cũng không bao giờ quay lại. Phật đã nói, thấy không-vĩnh cửu của nó, trong đó, không có nỗ lực gì cả. Krishnamurti chỉ nói ‘thấy’.

Krishnamurti: Vậy thì câu hỏi là gì? Làm thế nào những dụng cụ ghi lại này cùng khả năng riêng của chúng, những chuyển động riêng của chúng, làm thế nào chúng chết đi và thâm nhập vào một kích thước khác, thậm chí chỉ trong một thời gian ngắn ngủi? Bạn không thể nương dựa Upanishads. Trong đó là uy quyền.

A: Chúng ta đến mấu chốt nơi mảnh trí năng nhận ra rằng bất kỳ điều gì nó làm vẫn còn trong cánh đồng và thế là, cái gì?

Krishnamurti: Bạn thấy, con người kết thúc-chết đã nói điều đó và kết thúc ở đó. Nhưng một con người kết thúc-chết khác đã nói tôi phải có cái gì hơn nữa; và thế là cái tinh thần vũ trụ xuất hiện.

A: Những người Phật giáo đã nói không có linh hồn. Cái mà thối rữa sẽ kết thúc. Nó sẽ chấm dứt. Đừng quyến luyến. Đó là tất cả mà anh có thể làm. Nó dẫn đến trống không, hay shunyata.

R: Những người Vedantin cũng nói cùng sự việc.

A: Họ sáng chế maya. Nó hấp thụ toàn lý luận của họ.

Krishnamurti: Sự phân biệt giữa hai là không-tồn tại. Chính mảnh trí năng nói, chuyển động này ở bên trong cánh đồng này. Liệu có bất kỳ chuyển động nào khác? Nó không nói có hay không có. Nó không thể lý luận, bởi vì nếu nó nói có, nó quay lại trong cùng cánh đồng – tích cực hay tiêu cực.

 Vậy thì câu hỏi là, liệu có một chuyển động khác hẳn chuyển động này? Ngược lại, không có tự do. Một vật mà vận hành từ một trung tâm bên trong bán kính riêng của nó, dù bao la đến chừng nào, không bao giờ được tự do. (Ngừng)

 Tự do là gì?

A: Khi nó hỏi liệu có một chuyển động khác, tôi không thể biết.

Krishnamurti: Tôi biết đây là ngục tù. Tôi không biết tự do là gì.

A: Anh đã xóa sạch một hoang mang, rằng tất cả là ảo tưởng. Truyền thống đã biến điều đó thành một kết luận.

Krishnamurti: Nghi vấn của tôi là, liệu có tự do? Truyền thống sẽ nói có, có moksha. Tất cả đều thiếu chín chắn.

A: Bị đối diện với nghi vấn này, lúc này tôi tuyệt đối không có dụng cụ để giải đáp nó.

Krishnamurti: Không, bạn có dụng cụ của qui trình lý luận, mảnh trí năng. Liệu không có giá trị trong sự thâm nhập này hay sao? Tôi đang hỏi, nếu khôngtự do bên trong cánh đồng này, vậy thì tự do là gì?

A: Mảnh trí năng không bao giờ có thể biết.

Krishnamurti: Đừng nói nó không thể biết. Mảnh trí năng chỉ có thể biết tự do bên trong cánh đồng, giống như một con người biết tự do bên trong một ngục tù. Vậy thì, nó hỏi tự do là gì? Nếu đây không là ‘nó’, vậy thì tự do là gì? Liệu có một sự việc như thế? Và nếu không có sự việc như thế, chúng ta hãy sáng chế những điều tốt đẹp nhất cho cái này – nhiều nhà vệ sinh hơn, nhiều móc treo quần áo hơn, nhiều phòng ốc hơn, tạo ra nội thất đó hoàn hảo. Thế là, con người không bao giờ được tự do.

 Mảnh trí năng khước từ rằng có thể khôngtự do, bởi vì nó không thể tưởng tượng rằng không có cách nào thoát khỏi ngục tù này. Những bộ não lanh lợi sáng chế maya, atman, brahman. Lúc này tôi đang tự hỏi mình, nếu khôngtự do, liệu vĩnh viễn cái trí bị bắt buộc phải sống trong cánh đồng này? Sự ích lợi của tất cả nó là gì? Những người cộng sản, những người vật chất nói rằng bạn không thể thoát khỏi. (Ngừng)

 Tôi đã nắm được nó: tôi không quan tâm liệu những tế bào não thay đổi hay không thay đổi. Tôi thấy rằng sự quan tâm về tự do này, tự do mà không là một công thức, mà không là một kết luận, không là tự do. Đúng chứ?

 Sau đó cái trí nói nếu điều này không đúng, vậy thì tự do là gì?

Thế là, nó nói tôi không-biết.

 Nó thấy rằng trong không-biết đó, có một đang chờ đợi để biết.

 Khi tôi nói tôi không biết tự do là gì, có một đang chờ đợi và một đang mong muốn để tìm ra. Điều đó có nghĩa cái trí không nói nó không-biết, nhưng đang chờ đợi cái gì đó xảy ra.

 Tôi thấy điều đó và tôi loại bỏ điều đó.

 Thế là tôi thực sự không-biết.

 Tôi không đang chờ đợi, không đang mong muốn. Tôi không đang hy vọng cái gì đó sẽ xảy ra, đáp án nào đó sẽ đến từ một tác nhân bên ngoài. Tôi không đang mong chờ một sự việc.

 Nó kia kìa. Có manh mối.

 Tôi biết đây không là ‘nó’. Không có tự do ở đây. Có sự đổi mới, nhưng không có tự do. Sự đổi mới không bao giờ có thể mang lại tự do. Con người phản kháng chống lại toàn ý tưởng rằng anh ấy không bao giờ có thể được tự do, rằng anh ấy bị bắt buộc phải sống trong thế giới này. Không chỉ mảnh trí năng phản kháng, nhưng toàn cơ quan, toàn sự nhận biết. Đúng chứ? Thế là nó nói rằng bởi vì cái này không là ‘nó’, tôi không biết tự do là gì. Tôi không mong chờ một sự việc, tôi không hy vọng hay cố gắng tìm ra tự do là gì. Tôi thực sự không-biết.

 Không-biết đó là tự do. Biết là ngục tù. Điều này tuyệt đối đúng đắn.

 Tôi không biết việc gì sẽ xảy ra vào ngày mai. Thế là, tôi được tự do khỏi quá khứ, được tự do khỏi cánh đồng này.

 Biết của cánh đồng là ngục tù, không-biết của cánh đồng cũng là ngục tù.

 Thưa bạn, hãy quan sát, tôi biết ngày hôm qua. Tôi biết việc gì đã xảy ra ngày hôm qua. Biết của việc gì đã xảy ra ngày hôm qua là ngục tù.

 Thế là, cái trí mà sống trong một trạng thái không-biết là một cái trí tự do. Đúng chứ?

 Những người truyền thống đã sai lầm khi họ nói, đừng bị quyến luyến. Bạn thấy, họ đã phủ nhận tất cả những liên hệ. Họ không thể giải quyết được vấn đề của những liên hệ, nhưng họ đã nói đừng bị quyến luyến và thế là đã tách rời khỏi tất cả những liên hệ. Họ đã nói ‘hãy tách rời’, thế là họ rút lui vào sự cô lập.

 Sống cùng sự hiểu biết của cánh đồng này là ngục tù. Và không biết ngục tù cũng không là tự do.

 Và thế là một cái trí sống trong cái đã được biết, luôn luôn trong ngục tù. Đó là tất cả.

 Liệu cái trí có thể nói tôi không-biết, mà có nghĩa ngày hôm qua đã kết thúc?

 Chính sự hiểu biết của tiếp tục mới là ngục tù.

A: Theo đuổi điều này đòi hỏi sự tàn nhẫn.

Krishnamurti: Đừng sử dụng từ ngữ tàn nhẫn. Nó đòi hỏi sự tinh tế cực kỳ. Khi tôi đã nói tôi thực sự không biết, tôi thực sự không biết. Chấm hết. Hãy thấy điều gì nó tạo ra. Nó có nghĩa một khiêm tốn thực sự, một ý thức của mộc mạc. Vậy thì ngày hôm qua đã kết thúc. Thế là, người đã kết thúc ngày hôm qua thực sự đang bắt đầu mới mẻ lại. Vì vậy anh ấy phải mộc mạc. Tôi thực sự không-biết; đó là một điều tuyệt vời làm sao. Tôi không biết liệu tôi có lẽ chết vào ngày mai. Vì vậy ‘không thể có bất kỳ kết luận nào tại bất kỳ thời điểm nào’, mà có nghĩa, không bao giờ có bất kỳ gánh nặng nào. Gánh nặng là biết.

A: Liệu người ta có thể đến được mấu chốt này và ở nguyên đó?

Krishnamurti: Bạn không phải ở nguyên đó.

A: Cái trí có một cách của chuyển hướng đột ngột. Những từ ngữ chỉ dẫn dắt anh đến một mấu chốt. Không có chỗ cho việc chuyển hướng đột ngột.

Krishnamurti: Hãy theo chầm chậm. Đừng trình bày nó theo cách đó. Chúng ta thấy điều này. Chúng ta thấy người mà nói sự tách rời, chúng ta thấy người mà sáng chế đại ngã. Chúng ta đến và nói, hãy nhìn kìa, cả hai đều sai lầm. Trong cánh đồng này không có tự do.

 Sau đó chúng ta hỏi, liệu có tự do hay không? Tôi nói tôi thực sự không-biết. Nó không có nghĩa tôi đã quên quá khứ. Trong ‘tôi không-biết’ không có sự bao gồm của quá khứ, cũng không có một loại bỏ của quá khứ, cũng không có một vận dụng của quá khứ.

 Tất cả mọi điều mà nó nói là, trong quá khứ không có tự do. Quá khứ là sự hiểu biết, quá khứsự tích lũy, quá khứ là mảnh trí năng. Trong đó không có tự do.

 Trong khi hỏi liệu có tự do hay không, con người nói ‘tôi thực sự không-biết’. Anh ấy được tự do khỏi cái đã được biết.

R: Nhưng cấu trúc của những tế bào não vẫn còn nguyên.

Krishnamurti: Chúng trở nên linh động lạ thường. Bởi vì linh động chúng có thể phủ nhận, chấp nhận; có sự chuyển động.

A: Chúng ta thấy cái gì đó như hành động. Từ trước đến nay chúng ta chỉ biết hoạt động. Không bao giờ chúng ta có thể phủ nhận hoạt động. Nó tiếp tục diễn ra. Trong sáng tạo hoạt động trống không, nó không còn là một cản trở cho hành động. Đang sống thông thường ngày sang ngày là một tiến hành đang diễn ra.

Krishnamurti: Bạn đang hỏi hành động là gì? Đối với một người không-biết, hành động là gì? Cái người mà biết đang hành động từ hiểu biết và hành động của anh ấy, hoạt động của anh ấy luôn luôn ở bên trong ngục tù, đang chiếu rọi ngục tù đó vào tương lai. Nó luôn luôn ở trong cánh đồng của cái đã được biết.

 Đối với con người mà nói tôi không-biết, hành động là gì? Thậm chí anh ấy không hỏi, bởi vì anh ấy đang hành động.

 Bạn đang bỏ lỡ cái gì đó, mà là, không-biết liệu ngày mai có hiện diện ở đó. Liệu bạn có thể thâm nhập vào điều đó? Tôi sẽ có bữa cơm của tôi vào buổi chiều, tôi sẽ đi dạo bộ; ngoại trừ việc đó, đối với một người mà biết tất cả hành động đều là không-hành động tổng thể; hành động của anh ấy luôn luôn gây tổn hại. Người hành động luôn luôn bị cam kết, bị dính líu. Bạn thấy hành động là sự liên hệ trong cánh đồng của cái đã được biết. Nó ở đó trong tách rời, trong quyến luyến, trong thống trị, trong qui phục. Sống là liên hệ. Liệu những người chuyên nghiệp đã nói về sự liên hệ?

R: Không.

Krishnamurti: Đối với họ sự liên hệ có nghĩa quyến luyếnvì vậy họ nói về tách rời. Nhưng tôi phải sống trong thế giới này. Thậm chí trong dãy núi Himalayas, tôi cần lương thực. Có sự liên hệ. Đó có lẽ là lý do tại sao toàn chuyển động Ấn độ về sự tách rời đã làm cho cái trí quá xuẩn ngốc, quá lặp lại.

A: Trong bài giảng đầu tiên của ngài, Phật đã nói rằng cả sự quyến luyến lẫn sự tách rời đều ô nhục. Cả hai điều đã đại diện cho ý tưởng của Ấn giáo về chạy trốn khỏi thế giới.

 

Krishnamurti: Tại sao họ đã không suy nghĩ về sự liên hệ? Khi người khất sĩ từ bỏ thế giới anh ấy không thể từ bỏ sự liên hệ. Anh ấy có lẽ không ngủ với một người đàn bà nhưng anh ấy không thể từ bỏ sự liên hệ. Tôi đang tự hỏi mình, nếu bạn từ bỏ sự liên hệ, hành động trở thành vô nghĩa. Hành động không có sự liên hệ là gì? Nó là đang làm cái gì đó một cách máy móc?

A: Hành động là sự liên hệ.

Krishnamurti: Sự liên hệ là điều cơ bản. Ngược lại, cái gì tồn tại? Nếu cha tôi không ngủ với mẹ tôi, tôi sẽ không hiện diện. Vì vậy sự liên hệ là chuyển động cơ bản của sự sống. Sự liên hệ bên trong lãnh vực của hiểu biết là chết rồi, hủy hoại, thoái hóa. Đó là thế giới trần tục.

 Vì vậy, hành động là gì? Chúng ta đã tách rời hành động khỏi những liên hệ: như hành động xã hội, hành động chính trị, bạn theo kịp chứ? Chúng ta không giải quyết được vấn đề của sự liên hệ này. Chúng ta loại bỏ nó bởi vì nó quá bi đát khi bàn luận về sự liên hệ, bởi vì tôi biết tôi có một người vợ và điều gì đó có lẽ xảy ra. Vì vậy tôi không muốn bàn luận nó. Tất cả mọi điều mà tôi nói là, tôi phải tách rời. Nếu bạn chấp nhận tất cả đang sống là sự liên hệ, vậy thì hành động là gì? Có một loại hành động thuộc công nghệ, hành động thuộc máy móc, nhưng mọi hành động khác đều là không-máy móc. Ngược lại, tôi thâu hẹp sự liên hệ thành quay cái bánh xe. Đó là lý do tại sao chúng ta đã khước từ tình yêu.

A: Liệu chúng ta có thể thâm nhập sự liên hệ của chúng ta cùng thiên nhiên?

Krishnamurti: Sự liên hệ của tôi cùng thiên nhiên là gì – chim chóc, bầu trời, cây cối, những bông hoa, những dòng nước đang chuyển động? Đó là sống của tôi. Nó không chỉ là sự liên hệ giữa người đàn ông và người đàn bà, nhưng tất cả việc này là bộ phận thuộc sống của tôi. Tôi đang nói về sự liên hệ cùng mọi thứ. Làm thế nào tôi có thể quyến luyến với cánh rừng, với con sông? Tôi có thể quyến luyến với từ ngữ nhưng không với những dòng nước. Bạn thấy, chúng ta bỏ lỡ toàn sự việc bởi vì chúng ta lẫn lộn từ ngữ với sự việc.

A: Liệu nó là một vấn đề của thức dậy lại tánh nhạy cảm?

Krishnamurti: Không. Câu hỏi là sự liên hệ là gì? Là liên quan với mọi thứ. Liên hệ có nghĩa ân cần; ân cần có nghĩa chú ý; chú ý có nghĩa tình yêu. Đó là lý do tại sao sự liên hệ là nền tảng của mọi thứ. Nếu bạn bỏ lỡ điều đó, bạn bỏ lỡ toàn sự sống. Vâng, thưa bạn, đây là ngục tù. ‘Biết’ là ngục tù và ‘sống trong biết’ cũng là ngục tù.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10181)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11232)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13565)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13705)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22172)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21835)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27346)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17762)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11716)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12312)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25229)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23254)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28555)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22746)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25666)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22265)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13982)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13419)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22432)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26326)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18448)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18948)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34474)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27344)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28361)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21352)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14878)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19190)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10609)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18555)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15656)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13173)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13414)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14014)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11783)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11621)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11335)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11877)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19931)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12382)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13935)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13266)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31927)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13423)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12747)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13320)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11877)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21838)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11081)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12887)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant