Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 15 – Bản chất của sự Thâm nhập

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9914)
Đối thoại 15 – Bản chất của sự Thâm nhập

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

Madras, 1971

Đối thoại 15

BẢN CHẤT CỦA SỰ THÂM NHẬP

Madras, ngày 7 tháng 1 năm 1971

N

gười hỏi A: Tất cả sống của chúng ta, chúng ta đã và đang suy nghĩ dựa vào nguyên nhânvận hành vào nguyên nhân. Toàn sống của chúng ta đang sống cùng nguyên nhân, đang tìm ra nguyên nhân và đang cố gắng kiểm soát nguyên nhân. Thậm chí khi chúng ta biết nguyên nhân, chúng ta không thể vận hành vào nó. Đây cũng là một bộ phận thuộc trải nghiệm của chúng ta. Phật đã khám phá nguyên nhân của đau khổ và đã được giải thoát khỏi đau khổ. Anh nói nguyên nhânhậu quảhậu quảnguyên nhân, và cũng vậy anh vạch rõ rằng trong nguyên nhânhậu quả này, thời gian là điều không thể tránh được. Thậm chí sau khi lắng nghe anh, ảnh hưởng của nguyên nhân và đang vận hành vào nguyên nhân đã trở thành một bộ phận tổng thể của suy nghĩ của người ta. Chúng ta có thể thâm nhập điều này?

Krishnamurti: Câu hỏi là gì?

A: Thâm nhập giá trị của chuỗi nguyên nhân-hậu quả trong khía cạnh của hiểu rõ.

Krishanmurti: Nó có nghĩa gì – thâm nhập? Trạng thái của cái trí mà thâm nhập là gì thay vì sự kiện của thâm nhập là gì? Bạn nói tất cả hành động có một nguyên nhân, và nguyên nhân đó gây ảnh hưởng hành động và nếu không hiểu rõ nguyên nhân, dù làm điều gì bạn muốn cùng hành động, nó sẽ luôn luôn bị giới hạn. Vì vậy thâm nhập nguyên nhân, hiểu rõ nguyên nhân và thế là tạo ra một thay đổi trong hành động.

 Tôi không biết nguyên nhân của hành động của tôi. Có lẽ có những nguyên nhân rõ ràng và những nguyên nhân khác mà không thể phát giác được bởi cái trí tầng ý thức bên ngoài. Tôi có thể thấy những nguyên nhân hời hợt cho hành động; nhưng những nguyên nhân hời hợt này có những gốc rễ rất sâu thẳm trong những ngõ ngách thuộc thân tâm riêng của người ta.

 Lúc này, liệu cái trí tầng ý thức bên ngoài có thể không những thâm nhập những tầng hời hợt nhưng còn lật tung những tầng sâu thẳm hơn. Liệu cái trí tầng ý thức bên ngoài có thể thâm nhập những tầng sâu thẳm hơn? Và trạng thái của cái trí mà thâm nhập là gì? Ba nghi vấn này là quan trọng. Ngược lại, sự khám phá nguyên nhân không có ý nghĩa gì cả.

R: Anh thâm nhập khi anh không biết.

Krishnamurti: Trước tiên chúng ta đã hỏi chất lượng của cái trí mà đang thâm nhập là gì? Nó đang thâm nhập cái gì – những nguyên nhân hời hợt hay những nguyên nhân được giấu giếm thật sâu thẳm? Vì vậy trước khi tôi bắt đầu thâm nhập, tôi phải tìm ra trạng thái của cái trí mà thâm nhập. Lúc này, trạng thái của cái trí, chất lượng của cái trí mà có thể thâm nhập là gì? Bạn nói Phật đã nói điều này, người nào đó đã nói điều đó, và vân vân, nhưng chất lượng của cái trí mà có khả năng, mà có thể thâm nhập là gì? ‘Cái tôi’ mà thâm nhập là gì – liệu nó quanh co, cận thị, viễn thị? Tôi phải tìm ra chất lượng của cái trí mà nhìn ngắm tấm thảm trước khi tôi có thể thấy bất kỳ cái gì. Chắc chắn, nó phải là một cái trí tự do. Liệu bạn có một cái trí được tự do khỏi bất kỳ kết luận nào? Ngược lại bạn không thể thâm nhập.

A: Chúng ta đã không chấp nhận những quy địnhchúng ta thấy và buông bỏ chúng.

Krishnamurti: Điều gì bạn đang thực hiện là sự phân tích. Bạn đang phân tích từng bước một. Khi bạn phân tích, điều gì xảy ra? Có người phân tích và vật được phân tích. Người phân tích phải có thị lực tinh tường để phân tích, và nếu trong bất kỳ cách nào sự phân tích này bị biến dạng, nó không có giá trị gì cả. Qui trình thuộc trí năng, thuộc phân tích hàm ý thời gian. Trước thời gian bạn tìm hiểu xong, qua sự phân tích, qua thời gian, những nhân tố khác len lỏi vào mà gây biến dạng nguyên nhân. Vì vậy, phương cách của sự phân tích hoàn toàn sai lầm. Vì vậy, phải có một buông bỏ của sự phân tích.

J: Tôi bị hoang mang.

Krishnamurti: Vâng, nó là một sự kiện mà khiến chúng ta bị hoang mang. Chúng ta không biết phải làm gì và chúng ta bắt đầu phân tích.

A: Đối với chúng tôi, qui trình của sự phân tích là cái gì đó cụ thể. Anh đã nói trong khi anh vận hành vào nguyên nhân, vài nhân tố khác nào đó len lỏi vào. Liệu nó có nghĩa sự phân tích của vấn đề trở thành không mạch lạc?

Krishnamurti: Tôi nghĩ toàn qui trình là sai lầm. Tôi quan tâm đến hành động mà được sắp xếp vào chung bởi một chuỗi của những tìm hiểu thuộc phân tích, những hàm ý thuộc phân tích mà trong nó thời gian được bao hàm. Trước thời điểm tôi tìm ra cái gì tôi đã tìm kiếm, tôi bị kiệt sức, chết rồi. Rất khó khăn cho cái trí tầng ý thức bên ngoài khi phân tích, khi tìm hiểu những tầng giấu giếm. Vì vậy, tôi cảm thấy toàn qui trình thuộc trí năng này là sai lầm. Tôi nói điều này mà không có bất kỳ thiếu tôn trọng nào.

A: Chúng tôi chỉ có dụng cụ đó – mảnh trí năng, như một phương tiện của thâm nhập. Ngoại trừ để thâu lượm, hồi tưởng, phân tích, phỏng đoán, liệu mảnh trí năng có thể thâm nhập? Mảnh trí năng có khả năng đó. Nó chỉ là một mảnh. Vì vậy, sự thâm nhập bởi một mảnh chỉ có thể tạo ra một hiểu rõ phân chia. Chúng tôi phải làm gì đây?

R: Tôi không thể làm bất kỳ điều gì cả.

Krishnamurti: Bạn nói mảnh trí năng là dụng cụ duy nhất có khả năng thâm nhập mà người ta có. Nó có khả năng sao? Mảnh trí năng có khả năng thâm nhập hay nó thâm nhập chỉ từng phần? Tôi thấy sự thật của điều đó, không phải như một kết luận, không phải như một quan điểm, nhưng sự kiện rằng mảnh trí năng là một phần có thể thâm nhập chỉ từng phần và vì vậy tôi không còn dùng mảnh trí năng nữa.

A: Một cái trí như thế có thể rơi vào niềm tin. Anh đang nói cái trí ý thức được điều này.

Krishnamurti: Sử dụng thuốc men, toàn bộ việc đó, là bộ phận của cùng hiện tượng

A: Khi cái trí, một cách thiển cận, từ bỏ sự phân tích, nó rơi vào những cái bẫy khác; vì vậy việc này phải được thực hiện một cách nghiêm ngặt cùng mảnh trí năng.

Krishnamurti: Sự phân tích khôngphương cách.

A: Chúng tôi thâm nhập bằng dụng cụ gì? Lý lẽ của chúng tôi phải chứng thực điều gì anh nói.

J: Anh đến đó bằng con đường nào đó mà không thuộc phân tích. Chúng tôi thấy sự chính đáng của nó.

Krishnamurti: Tôi nói với bạn sự phân tích khôngphương cách của hiểu rõ. Tôi trình bày cho bạn những chuỗi liên quan chính đáng khi đang sử dụng lý lẽ. Đó chỉ là một giải thích. Tại sao bạn không thấy sự kiện rằng sự phân tích không là phương cách?

A: Khi anh nói ‘Tôi thâm nhập và đây là như thế’, nó là lý luận thuần túy.

Krishnamurti: Điều gì bạn đã thực hiệnđạt đến một kết luận qua lý luận, nhưng chúng ta không đang nói về lý luận. Lý luận đã dẫn bạn đến sự phân tích. Người nào đó nói lý luận của bạn là sai lầm, bởi vì lý luận của bạn được đặt nền tảng trên sự kiện của trí năng, mà là từng phần; vì vậy thâm nhập từng phần không là thâm nhập gì cả.

A: Nó là sự phân tích thiên vị.

Krishnamurti: Giống như nói rằng tôi thương yêu người vợ của tôi một cách thiên vị.

A: Trong nỗ lực để hiểu rõ môi trường, thiên nhiên, hiện tượng bên ngoài, con người đã phát triển những dụng cụ nào đó và cũng vậy ở đây chúng ta sử dụng cùng những dụng cụ; nhưng chúng không thỏa đáng.

Krishnamurti: Chúng không là không-thỏa đáng. Chúng không trọn vẹn. Sự phân tích, qui trình, bao hàm thời gian. Bởi vì nó ở trong thời gian, nó phải thiên vị. Sự thiên vị bị tạo ra bởi mảnh trí năng, bởi vì mảnh trí năng là bộ phận của toàn cấu trúc.

A: Dụng cụ mà thâm nhập khi anh đặt ra câu hỏi là gì? Khi chúng tôi đặt ra câu hỏi chúng tôi quay trở lại mảnh trí năng.

Krishnamurti: Bạn bắt đầu bằng cách nói rằng mảnh trí năng là dụng cụ duy nhất của thâm nhập. Tôi nói mảnh trí năng là một bộ phận, và, vì vậy, sự thâm nhập của bạn sẽ thiên vị. Vì vậy, sự thâm nhập của bạn không có giá trị.

A: Rất rõ ràng rằng mảnh trí năng là một bộ phận và không thể thấy, nhưng nó bắt đầu làm việc qua thói quen.

Krishnamurti: ‘A’ đã bắt đầu bằng cách nói về nguyên nhân -hậu quả, hậu quả-nguyên nhân – đó là những qui trình của sự phân tích. Sự phân tích hàm ý thời gian và trong phân tích như thế có người phân tích và vật được phân tích. Người phân tích phải được tự do khỏi những chồng chất của quá khứ, ngược lại anh ấy không thể phân tích. Bởi vì anh ấy không được tự do khỏi quá khứ, sự phân tích khônggiá trị. Vì thấy điều đó, tôi nói nó chấm dứtVì vậy, tôi đang tìm kiếm một phương cách khác.

A: Đây là cách tóm tắt ngắn nhất – bằng lý luận, sự lý luận bị xóa sạch.

Krishnamurti: Tôi thấy sự phân tích khôngphương cách. Thấy đó hoàn toàn làm tự do cái trí khỏi một qui trình giả dối. Thế là, cái trí sinh động nhiều hơn. Nó giống như một người đi bộ vác theo một gánh nặnggánh nặng đó được quẳng đi.

A: Nhưng với chúng tôi gánh nặng đó quay lại.

Krishnamurti: Khoảnh khắc bạn nhận biết cái gì đó là đúng thực, làm thế nào nó có thể quay lại? Khoảnh khắc bạn thấy rằng con rắn độc là nguy hiểm, bạn không quay lại con rắn độc.

A: Nagarjuna nói ‘nếu bạn thấy điều gì tôi đang nói như một ý tưởng, bạn chấm dứt.’

J: Liệu có cách nào khác?

A: Anh nói điều gì đó. Khoảnh khắc anh nói điều gì đó, dụng cụ ngừng vận hành, bởi vì dụng cụ đó sẽ không nói bất kỳ điều gì nữa.

Krishnamurti: Nhưng dụng cụ đó rất nhạy bén, rất minh bạch; nó tránh khỏi bất kỳ hành động từng phần nào đang xảy ra.

A:liên tục đang nhìn ngắm, nó có thể vận hành.

Krishnamurti: Không, thưa bạn, toàn qui trình phân tích chấm dứt.

A: Khi chúng ta đã trải qua…này.

Krishnamurti: Không, chúng ta không đang thâm nhập. Tôi đang chỉ cho bạn làm thế nào để thâm nhập. Điều gì bạn đã làm là bạn đã sử dụng mảnh trí năng, dụng cụ thiên vị và nghĩ rằng đó là đáp án trọn vẹn. Hãy thấy làm thế nào cái trí đã lừa gạt chính nó, làm thế nào nó nói ‘Tôi đã phân tích tất cả điều này’, nhưng nó không thấy nó thiên vị như thế nào, và vì vậy nó không có giá trị. Là một dụng cụ tách khỏi những nhân tố khác, chính mảnh trí năng đã trở thành không giá trị. Tôi đang thắc mắc nếu mảnh trí năng không là dụng cụ của sự thâm nhập, vậy thì điều gì xảy ra?

A: Khi người ta đến mấu chốt này, người ta bắt đầu tin tưởng vào sự cần thiết phải được ủng hộ hay được giúp đỡ của chỗ dựa nào đó.

Krishnamurti: Sự kiện là, mảnh trí năng là một dụng cụ không trọn vẹn và không thể hiểu rõ một nhân tố tổng thể, một chuyển động tổng thể. Vậy thì sự thâm nhập là gì? Nếu mảnh trí năng không thể thâm nhập, dụng cụ có thể thâm nhập là gì? Sankara, Nagarjuna, Phật nói gì về điều này? Hãy tìm ra. Liệu có bất kỳ người nào trong số họ phủ nhận mảnh trí năng?

A: Họ nói, thâm nhập cùng sự trợ giúp của cái nền tảng.

Krishnamurti: Đó là cùng sinh lực từng phần, năng lượng từng phần, thâm nhập năng lượng tổng thể. Làm thế nào điều đó có thể được? Tại sao họ đã nói điều này?

R: Ý tưởng của kinh Veda là rằng với mảnh trí năng bạn không thể thấy, nhưng với cái tôi hay cái linh hồn, mà thuộc chính bản chất của sự nhận biết, bạn có thể thấy.

A: Bởi vì những cái trí của chúng tôi đã bị quy định quá nặng nề, khi chúng tôi có chỗ dựa, chúng tôi bám chặt.

Krishnamurti: Điều gì chúng ta muốn tìm ra là, sự phân tích và phương cách của trí năng không là sự thâm nhập gì cả. Nó giống như nói ‘Tôi đi một phần nào đó vào đường hầm.’ Chất lượng của cái trí là gì nếu mảnh trí năng không là dụng cụ?

A: Khi mảnh trí năng hoàn toàn bị gạt đi, lúc đó trong cái trí không có gì thuộc về quá khứ.

Krishnamurti: Nó là gì mà phải gạt đi? Vậy thì bạn quay trở lại nguyên tắc phân hai.

A: Chúng tôi thấy mảnh trí năng là từng phần.

Krishnamurti: Vì vậy, chúng ta đang hỏi: Chất lượng của cái trí mà có thể thâm nhập – cái trí không chỉ là mảnh trí năng nhưng còn là những tế bào não, những sinh học, những vật chất, những hệ thần kinh, toàn sự việc, cái tổng thể, cái trọn vẹn – mà có thể thâm nhập là gì? Chất lượng của cái trí mà có thể thâm nhập là gì? Tôi thấy rằng bất kỳ chuyển động từng phần nào là không trọn vẹn và, không dẫn đến bất kỳ nơi nào. Tôi thấy rằng thấy từng phần là không thấy gì cả, và vì vậy tôi chấm dứt nó. Nó hoàn toàn qua rồi. Tiếp theo cái trí hỏi, bản chất của cái trí là gì mà là tổng thể? Và chỉ có một nhận biết tổng thể như thế mới có thể thâm nhập. Và nó có lẽ không cần thâm nhập gì cả, bởi vì cái mà phải được thâm nhập cũng thuộc một mảnh của cánh đồng – sự phân chia, sự phân tích, sự thâm nhập.

 Tôi đang hỏi sự nhận biết tổng thể là gì, chất lượng của sự nhận biết tổng thể là gì?

A: Chuyển động của bất kỳ loại nào không thể là sự nhận biết tổng thể.

Krishnamurti: Sự nhận biết tổng thể là gì?

R: Có vẻ như thể không có dụng cụ bởi vì dụng cụ phụ thuộc vào cái gì đó.

Krishnamurti: Sự khó khăn là gì? Khi bạn nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy những bụi cây này, bạn nhìn chúng như thế nào? Bạn thường đang suy nghĩ về cái gì đó và tại cùng thời gian đó bạn đang nhìn. Tôi nói bạn phải nhìn, đó là tất cả. Sự khó khăn là gì? Chúng ta không bao giờ nhìn. Nếu tôi nhìn một bức tranh, tôi nhìn. Tôi không nói họa sĩ này là thế này và thế này, họa sĩ này giỏi hơn họa sĩ khác. Tôi không có đo lường. Tôi không diễn đạt bằng từ ngữ. Vừa lúc nãy chúng ta đã nói nhìn từng phần không là nhìn gì cả, vì vậy, cái trí đã chấm dứt từng phần, vì vậy khi tôi nhìn, tôi nhìn.

R: Yếu tố của thói quen quá mãnh liệt.

Krishnamurti: Vậy là, cái trí mà bị trói buộc trong thói quen không thể thâm nhập. Vì vậy, chúng ta phải thâm nhập cái trí mà bị trói buộc trong thói quen và không phải sự thâm nhậpChúng ta phải hiểu rõ thói quen. Quên đi sự thâm nhập, nguyên nhân, phân tích. Quên đi tất cả điều đó. Liệu cái trí có thể hiểu rõ thói quen? Chúng ta hãy giải đáp nghi vấn đó.

A: Bất kỳ điều gì anh nói cùng mảnh trí năngthiên vị.

Krishnamurti: Hãy thấy sự thật của nó, không phải lý luận về nó. Bạn có thể đưa vào lý luận sau đó. Điều gì bạn đã nghĩ đã là cái cửa không là cái cửa. Bạn sẽ không chuyển động hướng về điều đó ngay khi bạn thấy nó, nhưng bạn không thấy nó.

R: Sự khác nhau giữa nhận biếtcông nhận là gì? Đối với chúng tôi sự nhận biết chỉ hiện diện ở đó trong hình thức của công nhận.

Krishnamurti: Bạn công nhận qua liên tưởng. Công nhận là bộ phận của thói quen liên tưởng. Vì vậy, tôi đang nói bạn không thể thâm nhập, khám phá bằng cái trí quen thuộc với thói quen. Vì vậy, hãy tìm ra hệ thống máy móc của thói quen. Không tìm ra làm thế nào để thâm nhập, nhưng hãy tìm ra thói quen là gì.

A: Những thói quen là những khe rãnh.

Krishnamurti: Làm thế nào những thói quen đã được hình thành? Đó là cái cửa. Tôi đang đi qua cái cửa đó, lúc này tại sao cái trí lại rơi vào thói quen? Thói quen là gì? Làm thế nào cái trí rơi vào thói quen? Tôi sẽ phân tích nó.

 Chúng ta sử dụng sự phân tích mà là từng phần, mà không là hiểu rõ tổng thể. Biết rằng nó không có giá trị, chúng ta vẫn tiếp tục – tại sao cái trí rơi vào thói quen? Liệu có phải bởi vì đó là phương cách dễ dàng nhất để vận hành? Thức dậy vào lúc sáu giờ, đi ngủ vào lúc bảy giờ. Không có xung đột. Tôi không phải suy nghĩ về nó.

A: Tôi ngìn ngắm một cái cây. Tôi không phải suy nghĩ về nó. Và tuy nhiên cái trí nói nó là một cái cây.

Krishnamurti: Nó là một thói quen. Tại sao cái trí rơi vào thói quen? Nó là cách dễ dàng nhất để sống; dễ dàng khi sống một cách máy móc. Tình dục và trong mọi phương cách khác, dễ dàng khi sống theo cách đó. Tôi có thể sống một sống mà không có nỗ lực, không thay đổi, bởi vì trong đó tôi tìm thấy sự an toàn hoàn toàn. Trong thói quen không có sự thâm nhập, đang tìm kiếm, đang dò hỏi.

R: Tôi sống trong lãnh vực của thói quen.

Krishnamurti: Vì vậy thói quen chỉ có thể vận hành trong một lãnh vực rất nhỏ. Giống như một giáo sư rất giỏi nhưng vận hành trong một lãnh vực rất nhỏ; giống như một thầy tu vận hành trong một ngăn rất nhỏ. Cái trí muốn an toàn, bảo đảm, không thay đổi, sống trong những khuôn mẫu. Đó là một thâm nhập từng phần. Nhưng nó không làm tự do cái trí khỏi những khuôn mẫu. Vì vậy tôi sẽ làm gì?

A: Vì đã thấy điều này, vì biết rằng hiểu rõ từng phần không là hiểu rõ gì cả, làm thế nào cái trí hoàn toàn tự-giải thoát chính nó khỏi thói quen.

Krishnamurti: Tôi sẽ giải thích cho bạn.

A: Chúng tôi đã thâm nhập thói quen, nhưng cái trí không thoát khỏi nó.

Krishnamurti: Bạn sẽ không bao giờ quay lại sự phân tích của thói quen. Bạn sẽ không còn thâm nhập những nguyên nhân của thói quen. Thế là, cái trí được tự do khỏi gánh nặng của sự phân tích mà là bộ phận của thói quen. Vì vậy, bạn đã loại bỏ nó.

R: Vâng, vâng –

Krishnamurti: Không. Nó phải biến mất. Không phải chỉ bằng những từ ngữ. Thói quen không chỉ thuộc triệu chứng, nhưng nó còn thuộc hệ thần kinh thân thể. Khi chúng ta đã thâm nhập thói quen như chúng ta đã thực hiện, nó chấm dứt.

A: Chúng tôi không được tự do khỏi thói quen.

Krishnamurti: Bởi vì bạn vẫn còn đang quả quyết cái cửa hiện diện ở đó. Chúng ta đã khởi sự bằng cách nói ‘Tôi biết’. Có một ý thức nào đó của sự kiêu ngạo. Bạn không nói ‘Tôi muốn tìm ra.’

 Vậy thì, sự nhận biết tổng thể là gì khi cái trí được tự do khỏi thói quen? Thói quen hàm ý những kết luận, những công thức, những ý tưởng, những nguyên tắc. Tất cả những điều này là những thói quen. Thói quenbản thể của người quan sát.

R: Nó là tất cả mà chúng tôi biết về ‘cái tôi’.

Krishnamurti: Muốn tìm ra điều này, tôi dựa vào một quyển sách. Đó là nơi sự phá hoại được thực hiện, sự phá hoại mà những người khác đã thiết lập, những Sankara, những Phật và tất cả những người khác. Tôi thích người này hơn, tôi thích người khác hơn, và vân vân. Tôi sẽ không từ bỏ bởi vì đó là sự kiêu ngạo của tôi. Tôi tranh cãi. Bạn biết tranh hoạt hình mà diễn tả ‘Đạo sư của tôi có nhiều khai sáng hơn đạo sư của bạn’. Đó là tất cả. Vì vậy, thưa bạn, khiêm tốn là cần thiết. Tuyệt đối tôi không-biết gì cả và tôi sẽ không lặp lại một từ ngữ nào mà chính tôi đã không tìm ra. Tôi thực sự không muốn biết. Tôi biết đây không là phương cách. Tôi không muốn biết bất kỳ điều gì thêm nữa. Đó là tất cả. Cái cửa mà tôi đã nghĩ đã là thực sự không là cái cửa. Điều gì xảy ra sau đó? Tôi không chuyển động trong phương hướng đó, tôi sẽ tìm ra.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10183)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11232)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13570)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13708)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22179)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21840)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27352)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17765)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11722)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12316)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25236)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23260)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28561)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22754)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25670)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22271)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13982)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13421)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22442)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26334)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18450)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18949)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34479)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27348)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28370)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21356)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14879)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19191)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10613)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18557)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15657)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13174)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13414)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14016)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11784)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11623)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11336)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11881)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19935)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12388)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13936)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13268)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31934)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13426)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12747)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13322)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11878)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21844)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11084)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12889)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant