Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 9: Làng đánh cá

04 Tháng Chín 201100:00(Xem: 7185)
Chương 9: Làng đánh cá

ĐÔI BẠN HÀNH HƯƠNG
Chiêu Hoàng

Chương 9: Làng đánh cá

Từ khi gặp nhà sư áo đỏ, Công chúa đâm ra ít nói. Nàng thường hay mơ màng nghĩ đến con đường tu đầy chông gai, đạo hạnh, khó có người vượt qua nổi, rồi đâm ra tiếc rẻ, sao chỉ có cơ duyên quá ít ỏi khi gặp được Ngài?

Họ vẫn đi xuôi theo dòng sông, nhánh sông càng ngày càng mở rộng, có những khúc, mặt nước trải rộng mênh mang, đứng ở bờ bên này không còn nhìn thấy bờ bên kia đâu nữa...

Từ khi Công chúa cải trang thành ni cô, đi đến đâu có chùa chiền nàng đều ghé qua xin trọ đêm. Ngoại trừ những nơi không có thì nàng mới vào quán trọ. Phần đông dân chúng rất quý trọng chư tăng, ni, nên dừng chân nơi nào nàng cũng đều được đối xử một cách rất đặc biệt...

Vào một buổi chiều...

Họ dừng lại một quán trọ ven sông. Nơi đây, dân cư sống bằng nghề đánh cá. Chỉ có một vài hàng quán mọc lên làm nơi nghỉ chân cho khách thập phương. Đời sống ở đây thật nghèo nàn, đơn sơbình dị. Khung cảnh thật tiêu điều, đời sống chậm đến độ công chúacảm tưởng đó là một đời sống chết. Đâu đây, xơ xác một vài con chó chạy loăng quăng. Chỉ có nắng là hăng hái đổ xuống mọi nơi. Nắng chang chang, hừng hực, hắt xuống ngôi làng một sức nóng khủng khiếp. Không khí khô khan, buồn bã, cô đơn...

Sáng hôm sau, công chúa hỏi lão chủ quán:

– Sao trong làng vắng vẻ thế? Dân chúng đi đâu hết rồi?

– Chắc ni cô là người phương xa nên không biết. Phần đông dân trong làng sống về nghề đánh cá. Nơi có nhiều cá là ở biển hồ, cách đây khoảng ba ngày đường thuyền. Họ lập thành một “làng đánh cá” trên sông, ăn, uống, ngủ nghỉ, sinh con v.v... Nếu ni cô muốn ghé thăm làng, ta sẽ chuẩn bị một chiếc thuyền, sẽ có người đưa ni cô đi.

Công chúa hoan hỷ:

– Được! Xin lão làm giúp. Ta cũng thực sự muốn ghé thăm cho biết...

Chỉ cần khoảng nửa giờ sau là đã có chiếc ghe bầu đậu sẵn ngoài bến. Công chúa và Ếch lên ghe. Tuy gọi là chiếc ghe bầu, nhưng thực ra đó là một chiếc thuyền nhỏ. Hình như chiếc thuyền này chỉ dùng để chở khách thập phương, nên tất cả trên ghe đều chuẩn bị sẵn mọi thứ không thiếu thức gì, từ đồ ăn, nước uống và những vật dụng cần thiết...

Người lái ghe là một ông lão đội một chiếc nón lá sụp xuống mặt. Lão đưa cho công chúa một chiếc nón và bảo:

– Ở đây nắng rất gắt, xin ni cô dùng tạm chiếc nón lá này, nếu không có thể sẽ bị bỏng sau vài ngày dang nắng đấy!

Cảm ơn lão. Lão thật chu đáo quá!

– Tên tôi là Nhị. (lão tâm sự) Thực ra, tôi cũng có một cái tên đàng hoàng đấy, nhưng vì đứng thứ hai trong gia đình, mọi người đều gọi thế, riết rồi quên hẳn cái tên thật của mình...

– Vậy bây giờ chúng ta đi đâu đây? Công chúa hỏi.

– Làng đánh cá cách đây khoảng hơn ba ngày đi bằng thuyền, nằm ở giữa biển hồ. Vì hồ này rất lớn nên gọi là “biển”. Nơi biển hồ này, cá tụ tập rất nhiều, không có sóng lớn, nên dân đánh cá thường tụ nhau thành từng nhóm sống trên những ghe bầu lênh đênh trên sóng nước. Dân chúng sống theo chùm và cũng có người trưởng đoàn. Thỉnh thoảng trong những dịp lễ lớn, họ cũng ghé vào bờ.

***

Đêm hôm đó, Công chúa nằm dài trên boong thuyền nhìn lên một màn trời đen thẫm đầy sao lấp lánh, nghe tiếng sóng nước vỗ bập bềnh nhè nhẹ vào mạn thuyền. Nàng dùng tay gối đầu, còn Ếch thì nằm phục trên ngực đối mặt với công chúa. Cả hai hân hoan hít thở không khí trong lành của biển hồ. Ếch bảo:

Ngày xưa, hồi ta còn bé tí. Một lần cũng được người vú nuôi đưa ta ra vườn chơi dưới đêm đầy trăng sao thế này. Lúc ấy, ta ngạc nhiên và hỏi, “Vú ạ, tại sao lại có mấy ông sao trên trời thế?”. Người vú già cười xuề xòa kể cho ta nghe câu chuyện “Sự tích của mấy vì sao”. Công chúa đã nghe câu chuyện ấy chưa nhỉ?

– Chuyện kể ra sao?

– Chuyện kể rằng: Có một nàng công chúa xinh đẹp bị bà phù thủy ghen tức nét đẹp của nàng, nên đã bắt cóc, nhốt nàng trong một hang động lớn, được canh giữ bởi một con quái vật ngàn mắt. Công chúa buồn lắm, lúc nào cũng đứng ở cửa hang hát lên những lời ca buồn bã. Vua cha yết bảng, ai cứu được công chúa về sẽ gả Công chúa cho người ấy. Dĩ nhiên, biết bao nhiêu người đi, nhưng không có mấy người trở về. Tất cả đều bị con quái vật ăn mất. Vì nó có tới ngàn mắt, khi nó ngủ, thì chỉ có năm mươi mắt ngủ thôi, còn lại 950 mắt kia thức để canh giữ công chúa...

Một hôm, có một chàng hoàng tử ở nước láng giềng đến xin đi giết quái vật. Chàng có một cây kiếm thần và một sức mạnh vô song... Sau bao nhiêu chật vật, khổ đau. Cuối cùng hoàng tử cũng giết được con quái vật và giải thoát cho công chúa. Sau đó, hoàng tử lấy 1000 mắt của con quái vật gắn lên bầu trời đen thẫm làm đèn dẫn đường cho những kẻ đi đêm. Từ đó mới sinh ra các vì sao!

Công chúa cười, cắt ngang:

– Những câu chuyện cổ tích, thần thoại đó ta đã nghe qua rồi. Nhưng... vô lý lắm cơ, ta không tin nữa đâu. Cái đó chỉ để kể cho con nít nghe thôi! Bây giờ ta đã lớn, mà khi đã là “người lớn” thì không còn tin những chuyện cổ tích đó nữa...

Ếch mỉm cười trêu:

– Nghe chừng công chúa muốn làm “người lớn” lắm nhỉ? Ừ, cũng nên làm người lớn cho biết, vì người lớn có nhiều thú vui khác thích hơn...

– Là thú vui gì thế? (Công chúa hớn hở hỏi)

– Là... hi...hi...hi... Thế công chúa đã biết một nguồn vui là sự Thương–Nhớ–Nhau chưa? Đó cũng là một niềm vui của “người lớn” đấy!

Công chúa đỏ mặt, kêu lên:

– Eo ơi! Ếch lại cợt nhả với ta nữa rồi! Ta không thèm chơi với Ếch nữa!

Nói rồi, nàng xoay lưng, vất Ếch qua một bên, tiếng Ếch léo nhéo bên cạnh:

– Sao công chúa độc tài quá vậy? Hỏi ta thì ta nói, nói xong lại đòi nghỉ chơi? Đúng là con gái, tâm thức lắt léo chẳng biết đâu mà lường!

Công chúa cười khúc khích, trêu thêm:

– Ta là vậy đó! Tức hông? (rồi toét miệng cười, ngồi bó gối nhìn Ếch) À, người lớn có trò “giận nhau” không vậy?

Ếch suy nghĩ một chút rồi bảo:

– Hình như là có, nhưng không gọi là “giận nhau”, mà cái đó gọi là “nhõng nhẽo” đó! Ha... ha... ha... Ta trộm nghĩ, công chúa đang chơi trò... nhõng nhẽo với ta!

Công chúa vỗ tay đôm đốp:

– Vậy ta là “người lớn” rồi. Từ giờ về sau Ếch không được bắt nạt ta nữa nhé!

Dĩ nhiên. Ta chẳng bắt nạt công chúa bao giờ... Nhưng vì ta luôn luôn nói “sự thật”, nên đôi khi làm cho công chúa thẹn, lại đổ cho ta là bắt nạt!

Công chúa ngúng nguẩy, ngắt ngang:

– Thôi, không nói chuyện với Ếch nữa... Đợi lớn lên, ta đi học làm luật sư, sẽ về cãi lý với Ếch!

Nói rồi, nàng đứng dậy, bỏ đi long tong. Tiếng Ếch léo nhéo phía sau:

Công chúa... công chúa đi đâu đấy!

– Thì đi ngủ chứ đi đâu? Khuya rồi!

Tiếng Ếch buồn bã:

– Lại kiếm chuyện nữa rồi! (lầm bầm) Con gái hình như sinh ra đời chỉ để làm cho con trai khổ mãi thôi!

Ngủ ngon.....

***

Đúng như lão Nhị nói, thuyền đi khoảng độ hơn một ngày trời thì bắt đầu vào khu vực của hồ. Phải mất thêm hai ngày nữa thì thuyền mới bắt đầu vào khu vực của làng. Nơi đây mênh mông một khoảng sông nước bao la, nhìn ngút mắt cũng không thấy được bến bờ. Xa xa, thấp thoáng có khoảng độ trên dưới 50 ghe bầu đánh cá tụ lại nhấp nhô, chòng chành trên mặt hồ. Nhìn xa, giống như đám lục bình đang trôi. Lúc đó vào khoảng gần giờ Thìn, nắng vẫn còn non nên trên mặt nước nhìn thấy lấp loáng như ngàn mảnh ngọc vỡ chiếu rực rỡ.

Lão Nhị thoăn thoắt cho thuyền ghé vào một chiếc thuyền khá lớn, hình như lão đã làm nhiệm vụ này nhiều lần nên không còn cảm thấy bỡ ngỡ nữa. Vừa cặp áp vào mạn thuyền, lão vừa giải thích:

– Đây là chiếc thuyền chính, họ dùng làm nhà thờ và trường học cho trẻ em. Ta lên thăm một chuyến nhé?

Nói rồi, lão lấy một miếng ván to bản, bắc từ chiếc thuyền này qua chiếc thuyền bên cạnh.

– Được... Công chúa vừa nói, vừa dứng dậy chuẩn bị bước sang thuyền bên cạnh

Đó là một chiếc ghe bầu khá lớn, ngăn ra ba khoang. Khoang chính giữa khá rộng, sắp đặt như một lớp học, có bảng đen và có những bàn học cho trẻ con. Khoang bên cạnh dùng làm nhà Nguyện, cũng có những hàng ghế dài, và một bệ thờ, trên có hình một cây Thánh giá với Chúa bị đóng đinh trên đó. Còn khoang cuối, nhỏ hơn, thì dùng làm nơi chứa những đồ lặt vặt... Nói chung, tất cả đều rất đơn sơ, mộc mạc.... Trên thuyền chỉ có một ông già đang lúi húi vá lại những lưới đánh cá bị thủng. Ông lão ngước lên nhìn khách mới đến, khuôn mặt chợt tươi lên khi nhận ra lão Nhị. Chưa kịp lên tiếng, lão Nhị đã chào hỏi trước:

– Ông Nụ có khoẻ không? Dạo này sao rồi? Trong làng có gì lạ? (đổi giọng) Hôm nay, có vị ni cô muốn đến thăm, ta đưa nàng đến cho biết làng của lão đây.

Lão Nụ buông chiếc lưới cá xuống, khuôn mặt nhăn nheo ươm lên một nụ cười. Đôi mắt long lanh đầy niềm vui:

– Chào ni cô, đây là lần đầu tiên làng này mới có một vị tiểu ni cô ghé qua. (Ông cuống quýt nhìn quanh như tìm kiếm rồi tặc lưỡi). Chúng tôi không có ghế ngồi đàng hoàng, ngoại trừ phải vào nhà Nguyện hoặc phòng học. Xin ni cô cứ ngồi đại xuống đám dây thừng kia vậy!

Công chúa chắp hai tay trên ngực như một búp sen:

A Di Đà Phật! Xin lão cứ tự nhiên, cháu ngồi đâu cũng được mà...

Chuyện vãn khoảng một lúc thì công chúa biết được sự sinh hoạt của làng. Vì họ phải đi theo dòng cá, nên đời sống của họ lúc nào cũng lênh đênh trên sông nước, ít khi vào đất liền. Hàng tháng, có một cha xứ chèo thuyền ghé qua để giảng đạo, làm lễ, và thường hay có một số dân buôn bán từ đất liền đem những thực phẩm cần thiết ra trao đổi. Họ cũng có “trường học” cho trẻ em do một cô giáo trẻ phụ trách, lớp học chỉ khoảng bốn tiếng cho mỗi ngày vào buổi sáng. Tiền học trả theo một giá cả rất khiêm nhường, tượng trưng, tùy theo khả năng của từng gia đình. Nói cho cùng, phần đông, những người làm việc như vậy đều làm với một tâm thiện nguyện, muốn giúp đỡ, tiền công chỉ để trả chi phí cho một đời sống tối thiểu cần thiết mà thôi...

Đang chuyện vãn thì bỗng nghe lao xao tiếng cười nói của một đám trẻ. Phóng tầm mắt nhìn ra dòng sông, hóa ra đó là một chiếc ghe bầu nhỏ, trên có khoảng 7, 8 đứa trẻ con mình trần trùi trụi, chúng đều cùng có một màu da đen bóng, đang nắm tay nhau, quây chung quanh một thiếu nữ và hát lên những bài dân ca trẻ thơ rất trong sáng...

Ghe vừa cặp thuyền, lũ trẻ buông tay, nhảy ào lên thuyền công chúa đang đứng, chiếc thuyền chòng chành vì bị động, công chúa vội bám lấy thành thuyền, nhưng cặp mắt không rời người thiếu nữ... Nàng trông rất trẻ, tươi mát như thiên thần. Nàng có một nụ cười rạng rỡ, trong sáng, sống mũi thẳng, cặp mắt long lanh như sẵn sàng chia sẻ những niềm vui. Nàng khoác trên người một chiếc áo cánh trắng, nhìn xa cứ ngỡ như một loài chim biển với đôi cánh trắng chao nghiêng...

Thiếu nữ nhẹ nhàng nhảy thoắt lên mạn thuyền, đảo mắt một vòng và dừng lại phía công chúa. Lão Nụ vội vã giới thiệu:

– Cô giáo hôm nay thật có duyên được yết kiến với vị tiểu ni cô đây, thật hay quá. (Ông quay sang công chúa giới thiệu) Đây là Như Ngọc, cô giáo mới từ đất liền tình nguyện đến dạy học cho đám trẻ trong làng đã được non tháng nay (tặc lưỡi). Thật ra, một đời sống lênh đênh trên sông nước thế này, chúng tôi cũng khó kiếm được một vị nào tình nguyện làm những chuyện như vậy. Các cô giáo, thầy giáo trước, chẳng ai làm được quá một tuần. Hy vọng, cô Như Ngọc sẽ ở lại đây lâu dài hơn...

Thiếu nữ nhẹ nhàng nói:

– Ông Nụ thật khéo lo xa. Cháu đã nguyện là sẽ ở đây cho đến khi không còn ai cần đến cháu nữa...

Lời nói tuy nhẹ nhàng, nhưng kiên quyết. Công chúa nghe qua thấy lòng nảy sinh niềm kính phục. Cô giáo Như Ngọc cũng bắt chước thái độ của một vị ni, chắp tay trước ngực như một búp sen, cúi chào công chúa, rồi với thái độ khiêm cung lễ phép vừa phải, nàng xin phép được ra với bầy trẻ để bắt đầu cho một buổi học...

Lão Nhị đưa Công chúa trở về thuyền, rồi nói:

– Bây giờ vẫn còn sớm, nếu ni cô còn muốn đi thăm một vài người trong làng, ta sẽ sẵn sàng đưa cô đi.

– Xin phiền lão thêm ít nữa. Ta muốn ghé qua và tiếp xúc thêm một vài người dân trong làng...

– Được, vậy ta đi thôi!

Công chúa xuống thuyền. Hình ảnh cô giáo trẻ vẫn bám chặt vào tâm thức nàng. Tự hỏi, làm thế nào để một người con gái, đầy tuổi xuân, xinh tươi lại có thể hy sinh cả đời mình cho một cuộc sống buồn tẻ đến thế được? Nhìn người rồi ngẫm đến ta, công chúa thấy đời sống mình thật ích kỷ, vô nghĩa hết sức. Nàng bỗng cảm thấy hổ thẹn khi nhìn xuống chiếc áo mình đang mang, chiếc áo của một vị ni, nói lên một đời sống đạo hạnh, vị tha và tận tụy vì kẻ khác. Nhưng nàng đã làm được gì? Chẳng được gì cả! Ôi... ôi... ta quả thật đáng trách!

Tiếng lão Nhị đánh tan đi những tư tưởng luẩn quẩn tự trách của Công chúa:

– Ta đến thăm “ngôi nhà” này nhé...

Thuyền của công chúa đậu lại gần với một chiếc ghe bầu cũ kỹ. Trên có người đàn bà và ba đứa con thơ. Tất cả đều có một làn da sạm nắng. Lúc đó đã gần đúng ngọ. Người đàn bà đang lúi húi nấu cơm. Nhìn qua, bữa cơm rất đạm bạc, chỉ có một nồi cơm trắng, một con cá chiên tươi và một chút chao tương. Thấy có khách ghé thăm, người đàn bà vội vã quẹt hai bàn tay vào cái váy đen nhàu nát đã bạc màu. Công chúa nhìn mụ ái ngại, không biết cái váy của mụ có dơ hơn đôi tay mụ không. Tuy vậy, người đàn bà rất hiếu khách, mụ ra đứng tận ngoài khoang đón khách.

– Chào bà, (công chúa lên tiếng trước) tôi là khách phương xa muốn ghé thăm. Hy vọng không làm phiền bà.

– Không, không... (người đàn bà xua tay lia lịa) không phiền gì đâu. Chúng tôi sống trên sông nước thế này cũng rất nhớ đất liền, nên thỉnh thoảng khi có người tới thăm, chúng tôi rất thích. Nếu ni cô không ngại, xin ở lại dùng cơm trưa được chăng? Chồng tôi cũng sắp về tới giờ.

Công chúa vội xua tay từ chối:

– Không, không... chúng tôi chỉ ghé thăm một chút rồi đi ngay...

Nhìn “ngôi nhà” với ba mẹ con đang ở, công chúa thực sự ái ngại cho sự bần cùng, cơ cực của dân trong làng. Nàng cảm thấy lòng mình dấy lên một nỗi buồn bã lạ thường, nhất là sự bất lực không thể làm gì khá hơn cho đời sống họ. Sự buồn bã mãnh liệt đến độ nàng chỉ muốn khóc. Công chúa nhìn người đàn bà, dè dặt hỏi:

– Bà ở đây có cảm thấy vui thích không? Bà có hài lòng với đời sống hiện tại không? Nếu có được một điều ước thì bà sẽ ước điều gì?

Công chúa hỏi một loạt, người đàn bà ngơ ngác nhìn công chúa một giây. Đôi môi thâm đen không son phấn, khuôn mặt hơi tẻ vì đôi lông mày quá thưa, quần áo xốc xếch bạc màu. Người đàn bà nở trên môi một nụ cười mộc mạc:

Ni cô hỏi thì thực tôi cũng chẳng biết trả lời sao cho thỏa. Chúng tôi đã sống thế này từ đời cha ông rồi, chẳng biết được một đời sống nào khác để so sánh là thích cái này hơn hay cái kia kém. Thỉnh thoảng có được vào đất liền, cũng cảm thấy thích đấy... Nhưng hình như lại không thấy hợp, nên lại trở về với sông nước.

Nghe người đàn bà nói thế. Công chúa chỉ biết im lặng, ngậm ngùi...

Từ đó cho đến khi về bờ, công chúa không nói thêm lời nào nữa, nàng cứ nghĩ đến đời sống cơ cực của người dân trên thuyền (mà không biết mình đang cơ cực). Đến sự chịu đựng rất kiên trì với những thiên tai, bệnh hoạn v.v... Đến việc làm bất vụ lợi và không giới hạn của cô giáo trẻ, đến tuổi già còm cõi của lão Nụ v.v... Lòng nàng dấy lên một tình thương vô cùng tận, cùng lúc cảm thấy mình thật bé nhỏ, chẳng làm được một chút gì so với những việc thiện nguyện của những người bình thường khác đã và đang làm. Càng nghĩ, công chúa càng thấy buồn bã, nước mắt cứ tuôn như mưa...
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14874)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17803)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18215)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14992)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13188)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21166)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32589)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15320)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12349)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12834)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27529)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12137)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34960)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17749)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11828)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12650)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14570)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32473)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19461)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12971)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14087)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14270)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15318)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14145)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14136)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11959)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53178)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11664)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13927)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13821)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20695)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14313)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13432)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13619)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34178)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16211)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14073)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14203)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13564)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15912)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13517)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22978)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27747)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13906)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24976)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13950)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31335)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13866)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15563)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14980)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant