Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 3: Sự giao thiệp giữa Phật giáo với ngoại đạo

04 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 10506)
Tiết 3: Sự giao thiệp giữa Phật giáo với ngoại đạo

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm - Thích Tâm Trí dịch

---o0o---

CHƯƠNG XI
VƯƠNG TRIỀU CẤP ÐA 
PHẬT GIÁO SAU VƯƠNG TRIỀU NÀY

TIẾT III. SỰ GIAO THIỆP GIỮA PHẬT GIÁO VỚI NGOẠI ÐẠO

- Sao gọi là ngoại đạo?

Ngoại đạo chẳng qua chỉ là một thuật ngữ trong kinh điển Phật giáo, mà Phạn ngữ gọi là Ðê Tha Ca (Tirthaka) để chỉ các đạo giáo khác đạo Phật, hoặc có nơi, có lúc gọi là ngoại đạo, ngoại học, ngoại pháp.

Duy Ma Nghĩa Ký quyển một(7) nói: “pháp ngoại vọng kế, tự xưng ngoại đạo” (vọng chấp các pháp bên ngoài, thì gọi đó là ngoại đạo).

Trong “Tam Luận Huyền Nghĩa”(8) thì nói: “chí diệu hư thông, mục chi vi đạo, tâm Tu đạo ngoại, cố danh ngoại đạo (hiểu sai chân lý vi diệu, mà cho đó là đạo, vậy là tâm đạo chơi bên ngoài đạo, nên gọi là ngoại đạo). Còn Thủ Lăng Nghiêm Kinh Nghĩa Sớ, quyển hai thì nói “bất nhập chánh lý, đản tu tà nhân, danh vi ngoại đạo” (không hiểu chánh lý, tu theo tà nhân, thì gọi đó là ngoại đạo).

Phàm các đạo giáo bên ngoài Phật giáo được giới Phật tử gọi là ngoại đạo. Tiếng “ngoại đạo” ở đây không có hàm ý khinh mạn. Ðối với các học giả ngoài Phật giáo, không ai từ bỏ chính thân mình để cầu an ổn nơi đạo giáo khác. Vì vậy, ở đây hàm ý có ai đó hướng đến đạo giáo khác với Phật giáo để cầu đạo, tức người đó là ngoại đạo.

Hai chữ “ngoại đạo” được dùng trong Thánh điển Phật giáo phạm vi của nó rất rộng. Ở chương một, phần giới thiệu về Bà La Môn giáo, về sáu phái triết học, về lục sư ngoại đạo, và tổng quan về sau mươi hai kiến v.v... đều gọi là ngoại đạo. Tất cả họ ít nhiều cũng từng có giao thiệp với Phật giáo.

Phật giáo xuất hiệntrưởng thành trong hoàn cảnh được bao quanh bởi ngoại đạo. Sự diệt vong, sự biến chất của Phật giáo tại Ấn Ðộ cũng trong trạng huống bị bao phủ bởi ngoại đạo. Ðiều đó, Thánh điển A Hàm, A Tỳ Ðạt Ma của Bộ phái, trong các luận thư của các nhà Ðại thừa thấy được nên đã sử dụng luận biện một cách sắc bén đả phá ngoại đạo, như vậy cho thấy Phật giáo luôn không ngừng đấu tranh để phát triển. Sau cùng là Mật giáo, trên thực tế thì Phật giáo Mật giáo là đã bị ngoại đạo đồng hóa, về mặt tâm lý thì cho là Phật giáo Mật giáo để hàng phục ngoại đạo, nhưng đó chỉ là cách nói cường điệu. Chung cuộc, vận mệnh Phật giáo Mật thừa bị ngoại đạo tiêu diệt bởi sự tiếp thụ này.

Xin lược thuật những giao thiệp chính yếu giữa Phật giáongoại đạo.

- Phật giáo với Kỳ Na Giáo.

Ni Kiền Tử Nhã Ðề Tử (tức Ni Kiền Ðà Nhã Ðề Tử) được nói đến trong kinh A Hàm, là để chỉ Ma Hay Tỳ Lư (Ðại Hùng) Tên vị tổ khai sáng Kỳ Na giáo. Do đó, Phật giáo thường gọi đồ chúng Kỳ Na giáongoại đạo Ni Kiền Tử. Ông ra đời sớm hơn đức Thích Tôn, khu vực giáo hóa của ông và đức Thích Tôn đại loại tương đồng. Do đó, sự giao thiệp giữa hai giáo đoàn đương nhiên là có diễn ra.

Ấn tượng bên ngoài, thì Phật giáoKỳ Na giáo có vẻ tương tự giống nhau. Nhưng về bản chất giáo lý thì không.

Trước hết là nói về điểm tương đồng; đólà cả hai đều phủ định địa vị thần thánh của kinh Vệ Ðà. Cả hai đều không thừa nhận nhân cách ”Thần” của Bà La Môn giáo, và đề xướng vô thần luận. Hai vị giáo chủ đều xuất thân là vương tử thuộc tộc Sát Ðế Lợi. Cả hai vị khai tổ này được tôn xưng là Ðại Hùng, là Thế Tôn, là Mâu Ni, được người đời cường điệu xưng tụng theo tư tưởng Luận Vương và chủ nghĩa không sát sinh, lại giống nhau về việc tổ chức giáo đoàn Tỳ kheoTỳ kheo ni.

Lại nói về những khác nhau giữa hai giáo chủ: vấn đề kết tập Thánh điển giữa hai tôn giáo không giống nhau; lịch sử truyền thừa của hai tôn giáo cũng khác nhau; Kỳ Na giáo chủ trương nhị nguyên luận, là mệnh (tinh thần) và phi mệnh (vật chất) và đứng trên lập trường “sinh khí luận” với chủ trương vô ngã, và phủ định linh hồn thường trụ, trong khi Phật giáo đứng trên lập trường “Duyên sinh luận” với chủ trương vô ngã và phủ định linh hồn thường trụ. Kỳ Na giáo lấy chủ nghĩa “sinh thiên” làm giải thoát, Phật giáo lấy chứng Niết bàn ngay trong hiện thực làm giải thoát; Kỳ Na giáo dùng chủ nghĩa khổ hạnh làm phương pháp tu đạo, trong khi Phật giáo thì lấy giới - định - huệ tam học làm nấc thang cho tiến trình tu đạo. Tuy vậy, nhưng Kỳ Na giáoPhật giáo lại giống nhau trong việc dùng từ, như “nghiệp”, “lậu”, dù áo nghĩa của mỗi bên có khác biệt.

Trên bình diện thực tế, thì cả Kỳ Na giáo lẫn Phật giáo đều không được dung nạp vào truyền thống tôn giáo Ấn Ðộ. May là tuy Phật giáo bị diệt vong tại Ấn Ðộ, nhưng lại được rộng truyền ở các nước ngoài, còn Kỳ Na giáo tuy chưa được truyền ra nước ngoài như Phật giáo, nhưng nhờ vào giáo điều tu khổ hạnh rất khắt khe, nên đã không bị Ấn Ðộ giáo đồng hóa. Tu khổ hạnh cuối cùng vẫn cảm được lòng người, vì vậyKỳ Na giáo đến nay vẫn còn được truyền bá tại Ấn Ðộ.

- Ấn Ðộ giáo.

Như trước đã trình bày, Ấn Ðộ giáo (Hindulsm) là sự kết hợp giữa kinh Vệ Ðà của Bà La Môn giáo với “Bạc Già Phạn Ca” của tín ngưỡng dân gian mà thành.

Trước tiên xin đề cập đến sự phục hưng của tôn giáo Vệ Ðà. Ước chừng có bốn nhân tố:

1. Từ sau vương triều Giới Nhật, trong thời gian chừng năm trăm năm, thời gian này tăng lữ Phật giáo gia nhập Mật giáo, khiến sinh hoạt tăng đoàn ngày càng trở nên hủ bại.

2. Tăng lữ Phật giáo tập trung vào nghĩa lý nặng tính chất “không đàm”. Chỉ phát triển ở những trung tâm học thuật như tại chùa Na Lan Ðà v.v... và lơ là việc đi sâu và sinh hoạt của quần chúng dân gian để mở rộng việc hoằng hóa.

3. Học và hiểu được giáo nghĩa Tứ thánh đế, Bát chánh đạo của đức Phật, đối với đa số người không phải là chuyện nghe là hiểu được, chưa nói là hiểu được có thực hành được hay là không. Hàng “ngu phu dung phụ” hằng ngày sinh hoạt và sống trong đời thường với đầy những khốn nạn, họ chỉ mong ngóng có một vị chúa cứu thế đến để đưa họ lên trời.

4. Thuyết “Tứ tánh bình đẳng” của Phật giáo đã làm phá sản đặc quyền của giới tăng lữ Bà La Môn giáo, vì thế họ vẫn luôn nuôi chí khôi phục dù trải qua thời gian dài một nghìn năm, lúc này nhân khi Phật giáo bị bại lạc, thì đấy lại là tâm lý mong đợi của một số tăng lữ Bà La Môn giáo, nên họ liền kết hợp tín ngưỡng dân gian, dung hợp triết lý Phật giáo làm xuất hiện tư thái mới cho Ấn Ðộ giáo.

Lại nói về nội dung của Ấn Ðộ giáo: căn do của Ấn Ðộ giáo là từ thần thoại trong kinh Vệ Ðà, và thần thoại Sử Thi mà ra. Họ tin rằng thần Ðại Phạm Thiên (Brahman) là đấng duy nhất tối cao. Có khi họ gọi Ðại Phạm Thiên là Ðại Tự Tại Thiên (Ìsùvara) để chỉ vị thần sáng tạo vũ trụ. Có khi họ gọi Ðại Phạm Thiên là thần Thấp Bà (SÙiva), để chỉ vị thần phá hoại vũ trụ, có khi họ gọi Ðại Phạm Thiên là thần Duy Tu Nô (Vaisnava) tức thần bảo hộ, tuy nhiều lập trường như vậy, nhưng rốt ráo duy nhất vẫn là Ðại Phạm Thiên. Ấn Ðộ giáo tin vào các thần này, nên họ lễ kính hóa thân của thần cũng như vật tượng trưng của thần. Họ lấy nhân vật lịch sử là Tù trưởng Hắc Thiên (Krishn) trong “Ðại Chiến Thi” và nhân vật lịch sử là vương tử Ma La, trong “Ma La Sở Hành Truyện” và gán cho cả hai là hóa thân của thần Duy Tu Nô. Thậm chí còn cho rằng đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni của Phật giáo cũng là hóa thần của vị thần đứng hàng thứ chín trong số các Thần của Ấn Ðộ giáo, nên họ cúng lễ bái Phật Thích Ca Mâu Ni; ngoài ra Ấn Ðộ giáo cũng tiến hành việc tu đính và bổ sung giáo nghĩagiới luật, điều nay khiến những người chưa từng hiểu gì về Phật giáo thì nghĩ Ấn Ðộ giáo bao dung luôn cả Phật giáo, cùng lúc họ cũng thu nạp luôn những tín đồ thiển kiến của Phật giáo.

Như vậy, chính là do Ấn Ðộ giáo lấy nhân vật trong sử thi tạo thành hóa thân của thần Duy Tu Nô, lại còn miêu tả tù trưởng Hắc Thiên, cũng như cố sự của Kha Bích Tư Ái, rồi lấy đó làm kinh điển và được coi như thần thánh. Nhân đấy, trong miếu tự của Ấn Ðộ giáo có hội họa hình tượng cảnh nam nữ ôm nhau giao hội một cách bẩn thỉu. Ấn Ðộ cũng đem thần Tự Tại Thiên phối ngẫu với nữ thần, và gọi nữ thầnÔ Ma (Umà), còn thần Thấp Bà họ cho phối ngẫu với nữ nhân và gọi là Ðỗ Nhĩ Gia (Durgà). Xin cũng đừng quên việc nam nữ ôm nhau trong trạng thái tương giao tức tư thế giao hoan. Ðiều đó theo quan điểm văn hóa của nhân loại học, thì tự nó có ý nghĩa hết sức trang nghiêm đứng đắn, vấn đề này xin được nói đến ở chương sau.

- Ấn Ðộ Giáo hấp thu Phật Giáo

Ở phần trươc có nói đến việc tân Bà La Môn giáo hấp thụPhật giáo nhiều thứ. Giờ xin đơn cử một việc: đoạn cuối tiết một của chương này, có nói một vị học giả của phái Vệ Ðàn Ða, đó là Thương Yết La A Xà Lê (700-750 tây lịch), tư tưởng của ông thường được các học giả đời sau của phái Chánh thống cho là “giả trang của Phật giáo” - (Pracchanna Buddhism). Tư tưởng nổi tiếng nhất của ông là thuyết “huyễn thuyết” (Màyàvàda), với thuyết này; ông chủ trương hiện tượng giới là hư huyễn, Phạm Thiêntối cao, là siêu việt tất cả hiện tượng, là vô hạn, là thực tại, là tinh thần. Do huyễn lực của Phạm Thiên mà thành nguyên lý của hữu hạn hóa, đó là nhân cách của Thần Tự Tại, nhờ vào huyễn lực mà sáng tạo tất cả mọi hiện tượng của thế giới, đấy là sứcc sáng tạo của Thần Tự Tại; hiện tượng giới là cái được sáng tạo, đối với Ðại Phạm Thiên tối cao mà nói, thì thế giới hiện tượng chỉ là hữu hạn, là phi thực tại, phi tinh thần; tính hư huyễn của phi thực tại, của hiện tượng giới, được gọi là “huyễn tính”.

Khảo sát áo nghĩa của “Huyễn thuyết”, thì trong các điển tịch chính thống của Bà La Môn giáo không tìm thấyý vị nào tương đương với thuyết “Huyễn tính” cả, nhưng kinh Bát Nhã của Phật giáo đến Trung Luận của Long Thọ thì ý vị tương tự với Huyễn Thuyết là rất nhiều, tỉ như kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật(9) dùng mười thí dụ để thuyết minh “tính không” của các pháp; tất cả pháp như huyễn, như ánh lửa, như trăng dưới nước, như hư không, như tiếng vang, như thành Kiền Ðạt Bà, như cảnh trong gương, trong mộng, như ảnh, như hóa. Qua đó, có khả năng là Thương Yết La A Xà Lê tá dụng (mượn dùng) thuyết Tánh không của Phật giáo mà phát triển thành thuyết Thần tạo hóa của ông, và đặt cái tên là Huyễn thuyết.

Thứ nữa, Thương Yế La A Xà Lê còn thiết đặt nên lập trường “nhị đế”, và dùng nó để phát huy triết học của ông. Ông cho rằng do nhờ lập trường chơn đế mà biết có Thượng Phạm (Thượng Phạm chỉ cho Bản Thể), Thượng Phạm sản sinh thượng trí, chỉ có thượng trí mới biết được chân thực tối cao của Phạm Thiên. Do đó, theo ông tất cả thế giới hiện tượng đều là hư vọng; còn về lập trường tục đế, nhờ mà biết có Hạ Phạm (Hạ Phạm chỉ cho thần Tự Tại, hoặc thần Sáng Tạo), Hạ Phạm sản sinh hạ trí, nhờ hạ trí mà biết sự sáng tạo của Hạ Phạm nên nói tất cả hiện tượng giới là thực tại.

Khảo sát ý vị của thuyết “nhị đế” này, thì thấy căn nguyên của thuyết có xuất xứ từ Trung Luận của Long Thọ, đặc biệt là luận Ðại Trí Ðộ quyển ba mươi tám(10), có đoạn: “vị thế đế cố, thuyết chúng sinh vô sở hữu” (vì thế tục đế, cho nên nói có chúng sinh; vì đệ nhất nghĩa đế mà nói, thì chúng sinh không do đâu mà có).

- Kết quả của sự giao thiệp.

Thời ấy, Ấn Ðộ giáo nhờ dung nạp rất nhiều dạng văn hóa trong dân gian của Ấn Ðộ sau đó mới phục hưng, họ hiệu đính, san định lại kinh điển và khắc bản in thành giáo điều; có những giáo điều hạn chế hành vi, tư tưởng của tín đồ, và tín đồ Ấn Ðộ tự nhận chỉ có tôn giáo của họ là độc tôn cao thượng. Họ quan niệm rằng chỉ có “Thần” của người dân họ là đệ nhất tối tôn, và đất nước Ấn Ðộ của họ cũng là độc nhất vô nhị trên thế giới này. Theo họ, không quốc gia nào trên thế giới ưu tú như quốc gia họ, kết quả Ấn Ðộ giáo trở thành quốc giáo của dân tộc Ấn Ðộ.

Nói về Phật giáo sau thời kỳ vua Giới Nhật, Phật giáo nhận thấy thế lực phục hưng của Ấn Ðộ giáo là cực kỳ lớn mạnh, nên cũng thuận theo yêu cầu của dân gian bằng cách Phật giáo hóa những gì đặc sắc của Ấn Ðộ giáo. Làm vậy, là vì bấy giờ các luận sư Phật giáo không còn đủ sức để thủ thắng Ấn Ðộ giáo về mặt biện luận. Nhưng lại “vũ trang” về mặt tâm lý. Ðó là lý do xuất hiện những thần Kim Cang với vẻ mặt phẫn nộ, tức sự xuất hiện của thần Kim Cang Tát Ðỏa có nhiều đầu nhiều tay. Phật giáo tạc tượng Kim Cang Thủ Bồ tát với chân bên hữu dẫm lên Ðại Tự Tại Thiên, chân bên tả dẫm lên Tự Tại Thiên đang trong tư thế giao hợp với nữ thần. Ấn Ðộ giáo thờ rất nhiều thần, và các thần của Ấn Ðộ giáo không vị nào là không bị Kim Cang Tát Ðỏa hàng phục.

Tất cả việc làm vừa nêu của Phật giáo là nhằm biểu lộ trạng thái tâm lý đương thời chứ không là gì khác. Những khổ tâm đó của Phật giáo đương thời như thế nào, cuối chương sau sẽ rõ.



(1) Năm 330-379 sau Công nguyên.

(2) Năm 380- 414 sau Công nguyên.

(3) Năm 535 đến năm 730 tây lịch

(4) Ðại Chánh Tạng-50, cuối trang 321.

(5) Ðại Chánh tạng-50, cuối trang 337.

(6) Ấn Ðộ Chí Phật giáo, tiết I, chương 13, của pháp sư Ấn Thuận.

(7) Ðại Chánh tạng-38, đầu trang 428.

(8) Ðại Chánh tạng-45, giữa trang 1.

(9) Ðại Chánh tạng-8, đầu trang 217.

(10) Ðại Chánh tạng-25, trang 336.



TIẾT III. LƯỢC KHÁI QUÁT LUẬN CU XÁ.

Phẩm Mục của Cu Xá.

Ðại luận sư Thế Thân, người nước Kiền Ðà La sau đến nước Ca Thấp Di La học luận Ðại Tỳ Bà Sa, lúc hồi hương ông viết ra yếu nghĩa với sáu trăm bài tụng, và gởi sáu trăm bài tụng này trở lại nước Ca Thấp Di La. Bấy giờ có luận sư Ngộ Nhập của Hữu Bộ cho rằng sáu trăm bài tụng của Thế Thân trái nghịch với giáo nghĩa chính thống nên yêu cầu Thế Thân viết thích nghĩa cho sáu trăm bài tụng do ông viết ra. Nhân đó, Thế Thân liền viết thích luận mà thành bộ A Tỳ Ðạt Ma Cu Xá Luận (Abhidharmakosa Sàstra) đọc giản lược là Cu Xá Luận. Bộ luận này hiện vẫn còn bản luận sớ Phạn văn, và một số thứ loại chú sở của Ấn Ðộ được dịch ra Tạng văn. Gần đây tại Trung Quốcpháp sư Diễn Bồi viết cuốn Cu Xá Luận Tụng Giảng Ký. Ðây là tư liệu có thể tham khảo.

Luận Cu Xá là bộ luận chỉnh lý, thống nhất phê phán và tổ chức lại tư tưởng cực kỳ vụn vặt của Hữu Bộ để thành bộ luận vô cùng xảo diệu. Xin liệt kê những phẩm mục của Luận Cu Xá như sau:

blank

Phương pháp để dễ ghi nhớ cá phẩm mục trong Luận Cu Xá, xưa nay người ta có một bài kệ tóm gọn như sau:

“Giới nhị căn ngũ thế gian ngũ.

Nghiệp lục tùy tam Hiền thánh tứ.

Trí nhị định nhị phá ngã nhất.

Thị danh (Cu Xá) tam thập quyển”.

- Cu Xá với Bảy Mươi Lăm Pháp.

Luận cu Xá đem tất cả các pháp chia thành pháp hữu vipháp vô vi. Phàm cái gì được tạo tác bởi nhân duyên, chịu sự dịch chuyển, sự tác động bởi thời gian, có sự sai biệt về nhiễm tịnh, tức tất cả mọi hiện tượng của thế gian đều thuộc pháp hữu vi. Thoát ly tính chất pháp hữu vi, xa lìa tất cả trạng thái của tác dung, bao hàm cả cái nghĩa ba khoa là”Khôi thân diệt trí” của Niết bàn, đều thuộc pháp vô vi. A Tỳ Ðạt Ma phần nhiều lấy ba khoa làm ngũ uẩn, mười hai nhân duyênmười tám giới làm chuẩn rồi theo đó phân loại pháp. Luận Cu Xá dựa vào cách phân loại này, nhưng có thêm sự nghiên cứu về sắc pháp, Tâm pháp, tâm sở hữu pháp, tâm bất tương ưng hành pháp và vô vi pháp từ bộ luận Phẩm Loại Túc. Tuy nhiên việc xác định bảy mươi lăm pháp là do sau này ngài Phổ Quang nêu ra trong bộ Cu Xá Luận Ký do ông trước tác. Nhân vì trong Luận Cu Xá vẫn chưa lấy các pháp bất định như ố tác, thùy miên, tầm, tư trong tâm sở hữu pháp làm số lượng. Còn nguồn bảy mươi lăm pháp xuất thân từ luận Cu Xá thì không phải nghi ngờ gì.

Xin liệt kê danh xưng bảy mươi lăm pháp như sau:

blank
 

- Quả nhân duyên.

Luận Cu Xá tóm thu tất cả các pháp qui thành bảy mươi lăm pháp. Nhưng bảy mươi lăm pháp này không tồn tại một cách cá biệtđộc lập, mà tồn tại trong mối quan hệ hỗ tươngliên quan với nhau một cách mật thiết, đấy là Nhân duyên luận (xin đọc Tiểu thừa Phật Giáo tư tưởng luận - của Mộc Thôn Thái Hiền, thiên II, chương sáu). Nhân và duyên ràng buộc với nhau thành ra quả. Thông xưng gồm có: sáu nhân, bốn duyên và năm quả, như biểu đồ sau:

blank

- Pháp Thế Gian.

Pháp nhân quả, gom cả thế gian phápxuất thế gian pháp. Nhưng các pháp thế gianxuất thế gian cũng cần có thêm sự phân loại. Phẩm Thế Gian, Phẩm Nghiệp và Phẩm Tùy Miên của Luận Cu Xá là dùng để phân tích Quả, Nhân, Duyên thuộc mê giới. Mê giới lại được chia thành hữu tình thế giankhí thế gian. Ðịa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, nhân, thiên thuộc hữu tình thế gian, đứng về mặt không gianan lập tầng thứ thì sự lưu chuyển sinh tử của hữu tình được chia làm bốn trạng thái là; sinh hữu, bản hữu, tử hữutrung hữu. Còn y vào mười hai duyên khởi thì có ba đời với lưỡng trùng nhân quả, đấy là nói về mặt thời gianan lập thứ tự. Dục giới, sắc giớivô sắc giới, ba giới này làm khí thế gian. Lại lấy bốn kiếp là: thành, trụ, hoại, không, chi phối sự tuần hoàn sinh diệt của khí thế gian (đồ chứa đựng gọi là khí), đây là nói thứ tự khí thế gian được an lập về mặt thời gian.

Song nếu không có pháp xuất thế gian thì sự an lập pháp thế gian bất luận đó là hữu tình thế gian, hay khí thế gian, kết cục vẫn cứ mãi quay vòng mà không có điểm dừng lại, thành ra vô thỉ vô chung, vì cứ nối tiếp nhau làm nhân rồi lại làm duyên tương tục không dứt.

Sở dĩ chúng sinh không thoát khỏi được sinh tử, đó là do tạo nghiệp, tạo nghiệp thị thọ quả báo. Do đó, Phẩm Nghiệp của luận này đặc biệt dành để phân tích thuyết nói về Nghiệp. Nghiệp được chia thành “tư nghiệp” và “tư dĩ nghiệp”. Nghiệp thuộc về ý gọi là tư nghiệp, nghiệp thuộc về thân và ngữ gọi là tư dĩ nghiệp. Lại lấy hai nghiệp thân và ngữ, mỗi nghiệp như thế lại chia thành “biểu nghiệp” và “vô lậu nghiệp”. Chúng sinh tạo nghiệp là do “hoặc” (mê mờ) sai sử, do đó Phẩm Tùy Miên của luận này là nhằm khai thông vấn đề “hoặc”. Tùy miên là do hoạt động của nghiệp mà dẫn dến khổ quả, ý vị của tùy miên trong đó có phiền não. Phiền não được phân ra thành căn bản (sáu thứ hoặc mười thứ) và chi mạt (có mười chín thứ). “Hoặc” có “kiến hoặc” - mê về lý, và “tư hoặc” - mê về sự; kiến hoặc là do mê muội không thấu rõ lý Tứ đế, kiến hoặc phối hợp cả trong tam giới mà thành tám mươi sử. “Tư hoặc” là bốn thứ: tham, sân, si, mạn trong căn bản phiền não, cọng cả thảy trong tam giới có mười thứ; trong đó dục giới có bốn, còn sắc giớivô sắc giới ngoại trừ không có tham, còn thì mỗi giới đều có ba thứ, lại còn có một trăm lẻ tám phiền não, tức tám mươi tám sử thuộc kiến hoặc, mười thứ thuộc “tư hoặc” cộng với mười trên mà thành (108). (Các danh tướng vừa nêu xin đọc thêm Pháp số).

- Xuất thế gian.

Mục đích của việc phân chia pháp thế gian là nhằm tiến đến con đường xuất thế gian của thánh đạo. Phẩm Hiền Thánh, Phẩm Trí, Phẩm Ðịnh của Luận Cu Xá là để thuyết minh: quả, nhân, duyên thuộc thế giới chứng ngộ. Trí ở đây chỉ cho nghĩa quyết đoán, và được chia thành hữu lậu trívô lậu trí. Bốn thứ huệ là: sinh đắc huệ, văn huệ, tư huệ và tu hệ thì gọi là hữu lậu trí; hai thứ là pháp tríloại trí, thì gọi là vô lậu trí. Công năng của trí là đoạn trừ kiến hoặc. Nói về định, cũng chia thành sinh đắc định và tu đắc định, hai định này mỗi định có bốn sắc giới định (tứ thiền) và bốn vô sắc giới định, mỗi định lại phân ra cận phần địnhcăn bản định. Do công năng của trí và định mà có thể thứ lớp chứng nhập quả vị hiền thánh. Quá trình đoạn hoặc chứng chơntrải qua nhiều giai đoạn và quả vị vô cùng phồn phức. Xin lược qua như sau:

1. Hiền Vị thất gia (bảy bậc) và chia ra hai loại:

a) Tam hiền - Ngũ đình tâm, biệt tướng niệm trụ, tổng tướng biệt trụ.

b) Bốn thiện căn - Noãn thiện căn, đảnh thiện căn, nhẫn thiện căn (nhẫn thiện căn lại có thể tế phân ra làm: hạ, trung thượng ba phẩm), thế đệ nhất pháp.

2. Hai loại thánh vị, chia thành “tam đạo bát bối” (ba đường tám nhóm):

a) Hữu học vị chia làm Dự Lưu - hướng thuộc kiến đạo, Dự Lưu quả thuộc kiến đạo, Nhất Lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A la hán hướng.

b) Vô học vị thuộc vô học đạo, tức là quả A la hán. Những quả vị thanh văn này chỉ có khi thế gian có Phật. Khi đời không có Phật xuất hiện, tự mình có thể quán mười hai nhân duyênngộ nhập Thánh quả, thì gọi là Ðộc giác, và tiếng Phạn là Bích Chi Ca Phật (Pratyekabuadha). Kiếp trướchiện kiếp khi đức Thích Tôn chưa chứng đắc Phật quả, Ngài được xưng là Bồ tát. Trước tiên Bồ tát phải nỗ lực tu lục độ vạn hạnh, trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp, lại còn phải trải qua trăm kiếp để gieo trồng “tướng hảo chi nghiệp” (nghiệp thiện để thành tướng hảo), sau rốt mới chứng Ðẳng Chánh Giác (thành Phật). Sau cùng là Phẩm Phá Ngã. Ðây là phẩm xiển minh lý vô ngã của Phật giáo, đồng thời dùng lý nghĩa này để phá bỏ ngoại giáo, và thuyết hữu ngã dị chấp.
 
 

(1) Ðại Chánh tạng-49, cuối trang 15.

(2) Một tên gọi khác để chỉ chúng sinh.

(3) Một tên gọi khác để gọi chúng sinh.

(4) Vô học: Ðạo học viên mãn, không phải tu học nữa thì gọi là vô học.

(5) Yết Lạt Lam Ka Lai,còn gọi là Ca La La v.v... dịch là ngưng hoạt, tạp uế v.v... tinh khí của cha mẹ khi mới hòa hợp ngưng kết, là thời kỳ thai nhi từ lúc thọ sinh cho đến 7 ngày sau. Từ Ðiển Phật Học - Hà Nội xuất bản 1994.

(6) Quyển 14 Ðại Chánh tạng-22, cuối trang 340.

(7) Quyển 32 Ðại Chánh tạng-22 cuối trang 501.

(8) Quyển 39, Ðại Chánh tạng-22, trang 536.

(9) Ðại Chánh tạng-24, giữa trang 676.

(10) Xin tham khảo luận thư của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, và sự nghiên cứu của các Luận sư của Bộ này - Pháp sư Ấn Thuận - trang 37.

(11) Ðại Chánh tạng-25, trang 192.

(12) Ðại Chánh tạng-25, giữa trang 192.

(13) Ðại Chánh tạng-25, đầu trang 70.

(14) Vọng Nguyệt Phật Giáo Từ Ðiển - cuối trang 903.

(15) Nước Ca Thấp Di La naylà bang Kamira của Ấn Ðộ, thuộc vùng tây bắc - chú của người dịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26270)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21679)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23466)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14758)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12972)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19877)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13832)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22792)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 12003)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12437)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 24118)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13746)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21103)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25712)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19267)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23265)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21411)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18345)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 14016)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15488)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17902)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21990)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17581)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 31004)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 28122)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14906)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17182)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22644)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28313)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 14047)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 17079)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22328)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14190)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21503)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20844)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28588)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 15087)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26621)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19310)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31662)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30690)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 21034)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26306)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23618)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25658)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25475)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19749)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18510)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17815)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 19090)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant