Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 1: Phân hệ và phân phái

04 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9980)
Tiết 1: Phân hệ và phân phái

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm - Thích Tâm Trí dịch

---o0o---

CHƯƠNG V
SỰ PHÂN CHIA BỘ PHÁI PHẬT GIÁO

TIẾT I. PHÂN HỆ VÀ PHÂN PHÁI

- Tứ chúng.

Nguyên nhân của việc phân phái được khởi đi từ nhiều hệ tư tưởng không giống nhau. Vấn đề này, chương trước đã có nói đến ít nhiều. Ðến thời vua A Dục, việc phân phái là từ “Tứ Chúng” chứ không phải từ hai Bộ.

Luận Dị Bộ Tông Luân và Bộ Chấp Dị Nghị(1) đều nói là do Tăng chúng phân rã mà thành Tứ chúng.

Ngài Liên Hoa Sinh và ngài Ðiều Phục Thiên v.v... khi truyền Phật giáo vào Tây Tạng cũng nói sau Phật nhập diệt một trăm mười sáu năm, các đệ tử Phật dùng bốn thứ ngôn ngữ để tụng giới. Nhất Thiết Hữu Bộ dùng Nhã ngữ (ngôn ngữ của người Aryan) để tụng giới. Ðây là hệ kế thừa học lưu của ngài La Hầu La. Ðại Chúng Bộ dùng Tục ngữ để tụng giới. Ðây là hệ kế thừa học lưu của ngài Ðại Ca Diếp. Chánh Lượng Bộ dùng Tạp ngữ để tụng giới (người làm thịnh hành hệ Ðộc Tử). Ðây là hệ kế thừa học lưu của ngài Ưu Ba Li. Thượng Tọa Bộ dùng (tiếng địa phương vùng trung Ấn Ðộ) Quỷ ngữ để tụng giới. Ðây là hệ kế thừa học lưu của ngài Ðại Ca Chiên Diên. Việc tụng giới khác ngôn ngữ của Tứ Chúng cũng được học giả Bố Ðốn của Tây Tạng nói đến trong cuốn “Phật Giáo Sử” do ông trước tác (Historyof Buddhism by Buston).

Bộ luận Dị Bộ Tông Luân, được ngài Huyền Trang dịch ra Hán văn(2) cũng nói đến Tứ chúng, đó là:

1. Long tượng chúng, gồm những vị nghiêm trì giới luật, như các học đồ của ngài Ưu Ba Li.

2. Biên Bỉ chúng, gồm những vị phá giới, như “giòng” của Ðại Thiên.

3. Ða Văn chúng, gồm những vị Tỳ kheo giữ lời Phật dạy, như các học đồ của ngài A Nan.

4. Ðại đức chúng, gồm những vị đại luận sư, họ như học đồ của ngài Phú Lâu Na.

Thuyết nói về sự phân phái vị tất đã chính xác, nhưng ít nhất nó cũng nêu rõ nguyên nhân về ngữ ngôn, về địa vức, và về sự kế thừa học lưu. Bởi tất cả đều liên quan đến sự xuất hiện của các phái.

- Bốn Ðại phái và Ba Hệ lớn

Việc thanh lý hệ thống Bộ phái Phật giáovấn đề khiến nhiều người phải đau đầu. Nhưng, nhờ ứng dụng phương pháp khoa học để khảo sát, vấn dề ấy mới được điều lý.

Theo nghiên cứu của pháp sư Ấn Thuận - người Tung Quốc. Ông đem Bộ phái Phật giáo chia ra thành bốn phái, ba hệ, hai bộ và một vị(3) theo biểu dưới đây:

 

blank

Biểu đồ trên là cơ sở của Bộ phái Phật giáo, dù phân thành Thượng Tọa Bộ và Ðại Chúng Bộ, nhưng tất cả hai mặt đều đặt nền tảng căn bản trên giáo lý của đức Phật.

Một chi của Thượng Tọa Bộ thuộc hệ phía đông, lại phân biệt tư tưởng của Thượng Tọa Bộ và của Ðại Chúng Bộ, từ đó mà có sự “lấy, bỏ”. Nên có tên là hệ Phân Biệt Thuyết. Hệ này đứng trên lập trường của Thượng Tọa Bộ, nhưng có phần hấp thu tư tưởng tiến bộ của Ðại Chúng Bộ. Thượng Tọa Bộ của tây hệ, do sinh hoạt ở vùng tây bắc Ca Thấp Di La có phần nhỏ hẹp, lại không tiếp xúc với phía đông; vì vậy, họ độc lập phát triển, và rồi hình thành nên tư tưởng Hữu Bộ bên trong có sự phân rẽ, và thêm một phân phái nữa. Theo sự truyền thừa của Ðại Chúng Bộ, thì sau này Hồng Y (Tích Lan Ðồng Diệp) Bộ, Pháp Tạng Bộ, Ẩm Quang Bộ, Hóa Ðịa Bộ, đều thuộc về hệ Phân Biệt Thuyết. Những Bộ này không phản đối Ðại Chúng Bộ một cách cực đoan. Về sau Ðại Chúng Bộ chuyển xuất thành Ðại Thừa Phật giáo, Thánh điển của Hệ Phân Biệt Thuyết ít nhiều cũng có khuynh hướng Ðại thừa. Chẳng hạn như Pháp Tạng Bộ (còn gọi là Ðàm Vô Ðức Bộ) tuy xuất hiện muộn hơn các Bộ khác, nhưng Bộ này lại thuộc về “Tứ Phần Luật”, vì vậy pháp sư Ðạo Tuyên của Tung Quốc cho là Bộ này thông với Ðại thừa. Ðiều đó có nguyên nhân xa hơn.

- Sự phân biệt Chi Mạt.

Sở dĩ gọi là phân biệt (tách ra) chi mạt là vì Ðại Chúng Bộ và Thượng Tọa Bộ đã phân chia rồi, nay lại phân chia thêm nữa. Vì vậy, mới có nhị bộ, tam hệ, tứ bộ, thập bát bộ, nhị thập bộ, Nam truyền thì có hai mươi bốn bộ nối tiếp nhau xuất hiện. Trong tư liệu của Bắc truyền, có nói đến việc phân chia bộ phái, đó là: giáo đoàn bạt Bối Lạt (Bhavya) được truyền tại Tây Tạng, “Văn Thứ Lợi Vấn Kinh”, “Xá Lợi Phất Vấn Kinh”, “Thập Bát Bộ Luận”, “Bộ Chấp Dị Luận”, Ðại Chúng Bộ thì có “Dị Bộ Tông Tinh Thích” do Thanh Biện tạo, tất cả các kinh, luận vừa dẫn đều có nói đến việc phân chia Bộ phái Phật giáo. Theo học giả Mộc Thôn Thái Hiền - người Nhật Bản, thì việc phân chia Bộ pháiliên quan đến tám truyền thuyết khác nhau.

Trong đó lấy “Ðại Sử” của Nam truyền, Hán dịch thì lấy “Thập Bát Bộ Luận”(4) của Hữu Bộ, dịch vào đời nhà Tần, “Bộ Chấp Dị Luận”(5) dịch vào đời nhà Trần(6), “Dị Bộ Tông Luân Luận”(7) được dịch vào đời nhà Ðường, và “Dị Bộ Tông Tinh Thích” của Ðại Chúng Bộ làm trọng yếu. Ngoài ra cũng có thể tham khảo sự truyền thừa của Chánh Lượng Bộ.

Sách này chỉ nhân vào “Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh” được truyền tại Tây Tạng và “Xá Lợi Phất Vấn Kinh” nói về việc phân phái, cả hai bộ kinh vừa nêu cùng với thuyết của Hữu Bộ giống nhau, do đó cho nên chỉ lướt qua. Trong ba bộ luận của Hữu Bộ, thì lấy “Dị Bộ Tông Luân Luận”(8) làm đại biểu. Nay xin liệt kê thành bốn biểu đồ sau:

1. “Ðại Sử” Chương V, được truyền bởi Thượng Tọa Bộ thuộc hệ Phân Biệt Thuyết của Nam truyền.

 

blank

blank

Chú: Các phái của Ðại Chúng Bộ và Thượng Tọa Bộ, phải sau Phật diệt độ từ một trăm đến hai trăm năm mới phân chia; Tuyết Sơn Bộ trở lui, thì sau khi còn các phái của Ðại Chúng Bộ và Thượng Tọa Bộ đã phân chia mới hình thành.

blank

Biểu đồ II: “Dị Bộ Tông Luân Luận” được truyền bởi Hữu Bộ thuộc hệ Thượng Tọa Bộ của Bắc truyền.

blank

blank

Biểu đồ III, “Dị Bộ Tông Tích Thích” do Thanh Biện tạo, được truyền bởi hệ Ðại Chúng Bộ.

blank

blank

Biểu đồ IV. Ðược truyền bởi Chánh Lượng Bộ: Ðại Chúng Bộ trước sau sáu bộ, đều được truyền bởi hệ Phân Biệt Thuyết, chỉ có điều là Bộ Kê Dẫn xưng là Ngưu Gia, và Bộ Chế Ða Sơn được xuất từ Bộ Ngưu Gia.

blank 

- Suy định về việc phân Bộ

Theo những biểu đồ trên, có thể nói một cách hiển nhiên; ấy là các thuyết được nói ở phần trước có sự hỗ tương qua lại, để cuối cùng không thể lấy thuyết nào làm chuẩn chung cho tất cả, bởi ý kiến của Luận giả có sự bất nhất. Vì các phái, phái nào cũng lấy lập trường của phái mình làm chính, và đều muốn đề cao sự xuất thân của Bộ phái mình, đồng thời cũng lấy lập trường của phái mình để thuyết minh. Do đó, chúng ta không nên tận tín và sự thuyết mình của một “nhà”, cũng không bỏ bất kỳ sự thuyết minh của một “nhà” nào, mà tập hợp tất cả mọi thuyết minh của các nhà để thẩm tra, suy luận. Có vậy chúng ta mới tiến đến gần diện mạo của lịch sử một cách khả tín. Ngày cả việc thẩm tra, suy luận, chúng ta cũng cần dựa vào trí tuệ của bản thân để đoán định.

Về đại thể mà nói, những tư tưởng được truyền bởi các nhà, đa phần họ đều dùng “Tự tông” làm cơ sở cho Bộ phái mình. Hệ Phân Biệt Thuyết tự lấy Thượng Tọa Bộ làm cơ sở. Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ cũng lấy “Tự tông” làm “Căn bản” cho Bộ mình. Ðây là nói về mặt chủ quan. Do đó, đối với việc phân phái theo thứ lớp của Thượng Tọa Bộ, thì nên theo những gì có phần khả tín, và được truyền bởi Ðại Chúng Bộ. Vì Ðại Chúng Bộ đứng trên quan điểm khách quan, và không mang thành kiến tự tông (lập trường của tông phái).

Nay xin lấy tiết hai và ba của chương sáu trong bộ “Phật Giáo Ấn Ðộ” của Pháp sư Ấn Thuận và bài Tự luận về “Nghiên cứu luận thư và luận sư của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ làm chủ yếu” cũng của Ấn Thuận để giới thiệu như sau:

 

blank

 blank

Về mặt suy định, thì nên nhất trí với những gì được nhiều thuyết đồng quan điểm, lấy đó làm định thuyết, còn như các thuyết lại có sự khác nhau, thì nên đứng trên phương diện khách quan để tham khảo, suy luận, và tìm hiểu tường tận đặc tính của tông thuyết ấy, rồi dùng mối quan hệ hỗ tương trước sau làm chuẩn qui. Có như vậy sự so sánh mới có thể chấp nhận được. Ðể nắm rõ vấn đề nêu trên, xin đọc nguyên tắc của pháp sư Ấn Thuận, ở đây chỉ giới hạn, nên có tính sơ lược
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26266)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21677)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23460)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14758)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12971)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19875)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13832)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22792)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 12001)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12437)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 24109)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13746)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21101)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25708)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19264)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23265)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21411)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18344)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 14014)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15485)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17901)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21989)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17580)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 30999)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 28120)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14906)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17182)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22644)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28306)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 14045)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 17078)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22327)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14189)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21503)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20842)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28584)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 15085)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26621)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19308)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31660)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30687)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 21034)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26295)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23616)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25654)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25464)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19749)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18509)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17815)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 19087)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant