Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

3. Các tín ngưỡng

05 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 11488)
3. Các tín ngưỡng

LỊCH SỬ VĂN MINH ẤN ĐỘ 

Tác giả: Will Durant - Nguyễn Hiến Lê dịch

CHƯƠNG V

THIÊN ĐƯỜNG CỦA THẦN LINH

III. CÁC TÍN NGƯỠNG

Các Purana – Sự thác sinh của vạn vật – Sự đầu thai của linh hồn – Luật quả báo – Khía cạnh triết lí của luật đó – Sống là khổ - Giải thoát.

Song song với thần học phức tạp còn có một thần thoại cũng phức tạp không kém, mặc dầu sâu sắc nhưng cũng chứa đầy những điều dị đoan. Các kinh Veda viết bằng tiếng Sancrit – một cổ ngữ sau thành tử ngữ – do đó mà cũng hoá ra mất sinh khí, mà phần siêu hình của các giáo phái Bà La Môn khó quá, dân chúng không hiểu nổi; vì vậy Vyasa và vài nhà khác, trong khoảng một ngàn năm (từ 500 trước Công nguyên tới 500 sau Công nguyên), viết mười tám Purana, “truyện cổ”, gồm 400.000 thi đoạn để giảng cho tín đồ những chân lí về sáng tạo, sự biến chuyển và sự huỷ diệt của thế giới theo từng chu kì; họ còn lập một phổ-hệ của các vị thần và chép lại chuyện thời đại anh hùng nữa. Các tác giả bộ đó không có ý làm văn, không trình bày theo một thứ tự hợp lí và không dè dặt chút nào cả khi đưa những con số; chẳng hạn họ cứ mạnh dạn tuyên bố rằng cặp tình nhân – tình thần thì có phần đúng hơn – Urvashi và Pururavas, sống sáu mươi mốt ngàn năm trong cảnh vui vẻ hoan lạc. Nhưng nhờ ngôn ngữ sáng sủa, có nhiều ngụ ngôn lí thú mà thuyết lại hợp với chính giáo, nên các Purana đó thành như Thánh kinh thứ nhì của Ấn giáo, cái kho bảo tồn những dị đoan, thần thoại, cả triết lí của Ấn giáo nữa, chẳng hạn chúng ta thấy trong Vichnoupurana – nghĩa là Purana viết về thần Vichnou – thuyết rất cổ mà vẫn còn mới hoài trong tư tưởng Ấn Độ: Cái “ngã” của mỗi vật chỉ là ảo tưởng, và đời sống nào cũng đồng nhất thể:

Sau ngàn năm, Ribhu tới

Châu thành Nidagha ở để giảng cho Nidagha hiểu biết thêm.

Ribhu gặp Nidagha ở ngoài châu thành.

Đúng lúc nhà vua sắp vô thành, phía sau là một đám đông tuỳ tùng hộ giá;

Nidagha đứng xa xa ở ngoài đám đông dân chúng,

Cổ ngẳng ra vì nhịn đói lâu ngày, ông ta mới ở rừng về với ít cành khô và cỏ.

Ribhu thấy ông ta, bèn lại gần, chào, hỏi:

“Anh Bà La Môn, làm gì thơ thẩn một mình đó?”

Nidagha đáp: “Ngó dân chúng đi coi nhà vua kìa,

Nhà vua đương về thành. Vì vậy mà tôi đứng né ra đây”.

Ribhu hỏi: “Người nào là vua?

Và người nào không phải là vua?

Anh chỉ giùm cho tôi, vì coi bộ anh thông thạo lắm”.

Nidagha đáp: “Người ngồi trên lưng con voi to lớn kia, hiên ngang như ngọn núi,

Người đó là vua. Còn những người khác là bọn tuỳ tùng”.

Ribhu bảo: “Anh nói tới hai “người”, ông vua và con voi.

Mà không chỉ cho tôi cách phân biệt được người này với người khác;

Tôi muốn biết ai đâu là vua, ai đâu là voi”.

Nidagha đáp: “Voi ở dưới, Vua cưỡi lên lưng voi;

Ai mà chẳng biết rõ kẻ cưỡi và kẻ bị cưỡi, kẻ nào ở trên, kẻ nào ở dưới”

Ribhu bảo: “Vậy xin anh chỉ cho tôi biết

Nghĩa của những tiếng ở dướiở trên”.

Tức thì Nidagha nhảy ngay lên lưng Guru[23] và bảo:

“Đây, nghĩa những tiếng ấy như vầy:

Tôi cưỡi ở trên như nhà vua đây nè, còn thầy ở dưới như con voi đấy

Thí dụ như vậy để cho thầy hiểu”.

Ribhu bảo: “Ừ thì cho rằng anh ở địa vị nhà vua, còn tôi ở địa vị con voi,

Nhưng anh cho tôi biết thêm điều này nữa: hai chúng ta đây, ai là anh, ai là tôi?”

Tức thì Nidagha vội tụt xuống, cúi rạp xuống ôm hôn chân Ribhu, bảo:

“Bẩm chính thần là Ribhu, tôn sư của con…

Nghe thầy nói, con hiểu rằng chính thầy, Guru của con đã tới”.

Ribhu bảo: “Phải, ta tới để giảng cho con bài học đó,

Vì con nhiệt tâm hầu hạ ta.

Ta tên là Ribhu, ta lại đây tìm con,

Và đã vắn tắt chỉ cho con,

Cái tâm điểm của chân lí tối cao này: hoàn toàn không có nhị nguyên tính[24].

Nói xong, Guru Ribhu biến mất.

Từ đó, Nidagha, nhờ cách giảng dạy tượng trưng đó mà chăm chú tìm hiểu sự Vô nhị nguyên.

Từ đó ông ta không phân biệt vạn vật với ông ta nữa.

Và ông ta thành một Brahman. Và đạt được vĩnh phúc.

Chúng ta thấy một thuyết rất “kim thời”[25] về vũ trụ trong những Purana và những sách tương tự ở thời Trung cổ Ấn; nhưng có sự Sáng tạo ra vũ trụ: vũ trụ luôn luôn biến hoá, tan ra, sinh trưởng rồi suy tàn, như cây cỏ, cơ thể, hết chu kì này tới chu kì khác. Brahma – đúng hơn là Prajapati, vì các sách gọi Đức Sáng tạo là Prajapati – là năng lực vô hình nó giữ cho sự chuyển biến đó xảy ra bất tuyệt. Nếu vũ trụ có khởi nguyên thì chúng ta không biết khởi nguyên đó ra sao; các Purana bảo có thể Brahma đã đẻ ra vũ trụ, như gà đẻ trứng, rồi ngồi lên vũ trụ để ấp cho nó nở; có thể vũ trụ này chỉ là hậu quả một sự lầm lẫn hoặc một trò đùa của Hoá công. Trong lịch sử thế giới, mỗi chu kì hay kalpa (kiếp) chia làm ngàn mahayuga hay thời vận, mỗi thời vận 4.320.000 năm; rồi mỗi mahayuga lại gồm bốn yuga hay thời đại, trong đó nhân loại cứ mỗi ngày mỗi suy. Trong mahayuga chúng ta sống đây, đã qua ba yuga, tức 3.888.888 năm rồi; thời đại chúng ta là yuga cuối cùng, gọi là kaliyuga, thời đại khốn khổ, mà chỉ mới qua được 5.035 năm trong thời đại đó, còn phải qua 426.965 năm nữa mới hết[26]. Lúc đó là tới đúng hạn chết của thế giới và Brahma sẽ bắt đầu một “ngày mới của Brahma”, nghĩa là bắt đầu chu kì kalpa mới là 4.320 triệu năm nữa. Trong mỗi chu kì, thế giới biến hoá theo những phương tiện và một cách thức tự nhiên, rồi suy vi cũng theo những phương tiện và một cách thức tự nhiên; sự huỷ diệt của toàn thể vũ trụ cũng chắc chắn như cái chết của con chuột, chứ không quan trọng gì hơn, trong con mắt của triết gia. Vũ trụ được tạo ra không phải để đạt tới mục đích, cứu cánh nào hết; không có gì là “tiến bộ”, chỉ là một sự lặp đi lặp lại hoài không khi nào dứt.

Trong những thời vậnthời đại đó, hằng tỉ năm đã qua, loài này chuyển sinh qua loài khác, kiếp này qua kiếp khác, vật này qua vật khác, cứ vãng lai như vậy đến chán ngấy. Sự thực một cá thể không phải là một cá thể, chỉ là một cái khoen trong cái dây xích sinh sinh, một trang của lịch sử một linh hồn; một loài nào đó không có một thực thể riêng biệt, vì linh hồn của các bông hoa, các sâu bọ kia, kiếp trước hoặc kiếp sau này có thể là linh hồn của con người; cả cái “sinh” chỉ là nhất thể. Một người nào đó chỉ có một phần là người thôi, một phần khác là loài vật; có những mảnh, những âm vang của những kiếp trước còn lưu lại trong kiếp này và làm cho người đó gần với con thú hơn là gần với nhà hiền triết. Loài người chỉ là một phần của vũ trụ, không phải là trung tâm, là chủ của vũ trụ, một đời người hay vật chỉ là một phần của trọn đời một linh hồn; hình thức nào cũng là tạm thời hết. Chỉ cái thực thểtiếp nối hoài và duy nhất. Một linh hồn phải trải qua biết bao nhiêu lần đầu thai, cũng như một đời người có biết bao nhiêu ngày, mỗi lần đầu thai của linh hồn có thể là một tấn bộ hoặc một suy đồi, cũng như trong đời có ngày tốt, ngày xấu. Một đời người ngắn ngủi như vậy, trong cái dòng “sinh” dằng dặt kia, làm sao có thể chứa tất cả lịch sử một linh hồn mà bảo rằng hễ làm điều thiện thì linh hồn được thưởng, làm điều ác thì linh hồn bị phạt? Mà nếu linh hồn đã bất diệt thì làm sao có thể nghĩ rằng số phận nó sau này tuỳ thuộc một đời người ngắn ngủi như vậy được?[27]

Người Ấn bảo muốn hiểu được đời sống thì có cách là nhận rằng mỗi kiếp người chịu hậu quả của những hành vi các kiếp trước. Không một hành vi lớn hoặc nhỏ, tốt hoặc xấu nào mà không tác động tới kiếp sau, mỗi cử chỉ đều có hậu quả của nó. Đó là luật karma, luật quả báo trong thế giới tâm linh; nó là luật tối thượng mà cũng ghê gớm nhất. Một người mà làm điều thiện tránh điều ác thì một đời người đó chưa đủ để thưởng công cho người đó; phần thưởng sẽ chia ra làm nhiều kiếp sau này của người đó, và nếu trong những kiếp này cũng vẫn tiếp tục làm điều thiện thì sẽ được hưởng những địa vị mỗi ngày mỗi cao, được hưởng phúc mỗi ngày mỗi nhiều; trái lại nếu làm nhiều điều ác thì có thể sẽ phải đầu thai làm hạng tiện dân, làm chồn, làm chó[28]. Luật karma đó, cũng như luật Moira, tức định mạng, của người Hi Lạp, chẳng những người mà ngay cả thần linh cũng không thể chống nó được, cái mà các nhà thần học gọi là ý chí của thần linh, chính là cái mà người Ấn gọi là karma. Nhưng karma khác với số phận, vì nói tới số phận tức là nhận rằng con người không làm sao thay đổi số phận của mình được, các thần linh đã bắt sao phải chịu vậy; còn theo luật karma (nếu chúng ta coi tất cả những kiếp nối tiếp nhau chỉ là một kiếp duy nhất) thì chính chúng ta làm chủ, tạo ra cái nghiệp của ta. Thiên đường, Địa ngục đều không thể làm dứt cái tác động của karma được; hoặc làm ngưng cái chuỗi sinh sinh tử tử được; sau khi thể xác chết rồi, linh hồn có thể phải xuống Địa ngục để chịu một hình phạt nào đó hoặc lên Thiên đường để hưởng một phần thưởng nào đó; nhưng không có linh hồn nào bị đày hoài dưới Địa ngục và rất ít linh hồn được ở hoài trên Thiên đường; hầu hết các linh hồn đều qua cảnh Địa ngục và Thiên đường rồi sớm muộn gì lại trở về cõi trần để sống nốt cái karma của mình trong những kiếp đầu thai khác[29].

Về phương diện sinh lí, thuyết đó đúng một phần lớn. Chúng tahậu thân của tổ tiên chúng ta và con cháu chúng ta sẽ là hậu thân của chúng ta; mà những tật của cha có thể di truyền lại cho con cháu, có khi tới mấy đời (mặc dầu không luôn luôn như vậy như một số người lạc hậu nghĩ lầm). Người Ấn đã khéo đặt ra huyền thoại karma để khuyến thiện trừng ác, làm cho cái thú tính con người giảm đi, bớt chém giết nhau, ăn cắp, làm biếng, hoặc bớt keo kiệt khi cúng dường các thầy tu; hơn nữa, nó cho ta một ý niệm vạn vật nhất thể, làm cho con người phải giữ bổn phận luân lí suốt đời, mà luân lí có được một khu vực áp dụng rộng hơn nhiều, hợp lí hơn nhiều, không nền văn minh nào khác sánh kịp được. Có những người Ấn chân chính rán hết sức không làm thương tổn sinh mạng của một con sâu, cái kiến; “cả những người chỉ hơi có tinh thần đạo đức thôi cũng coi các loài vật như bầy em khốn khổ hơn mình chứ không coi là những loài ti tiện mà mình là chúa tể”. Luật karma lại là một triết lí giảng được vài nét trong đời sống Ấn Độ có vẻ khó hiểu hoặc bất công. Những bất bình đẳng bất tuyệt giữa con người với nhau có vẻ như thách thức những nguyện vọng bình đẳngcông bằng của chúng ta; tất cả mọi hình thức của cái ác nó phủ lên thế giới một màn hắc ám, nhuộm đỏ lịch sử của nhân loại, tất cả những nỗi đau khổ nó đeo đẳng con người từ lúc sơ sinh cho tới lúc tắt thở, tất cả những cái đó, người Ấn nào đã tin karma thì cho là rất dễ hiểu; những đau khổ, những bất công đó, sự cách biệt giữa kẻ ngu đần và bậc thiên tài, kẻ nghèo hèn và kẻ giàu sang là cái “quả” của những kiếp trước, là hậu quả không sao tránh được của một cái luật mà nếu đem ra áp dụng vào một kiếp người, vào một quãng thời gian thôi thì có vẻ bất công, nhưng nếu áp dụng vào hết thảy các kiếp, cho tới cùng thì lại hoàn toàn công bằng[30].

Luật karma là một trong những sáng kiến của loài người để rán kiên nhẫn chịu những đau khổ trong đời và giữ được một chút hy vọng. Đa số các tôn giáo đều muốn làm tròn cái nhiệm vụ giảng nguyên nhân sự khổ và tìm cách khuyên tín đồ nếu không vui vẻ thì ít nhất cũng nên an phận, lặng lẽ nhận nó, đừng than thở. Vấn đề làm cho mọi người thắc mắc là tại sao con người lại phải khổ, nhất là những người chăm chỉ, hiền lương không đáng khổ mà phải chịu khổ, và ta phải nhận rằng nhờ Ấn giáo cho sự đau khổ có một ý nghĩa, một giá trị, mà bi kịch của nhân loại hoá ra bớt chua chát. Trong thần học Ấn Độ, linh hồn ít nhất cũng được điều an ủi này, ít nhất mình cũng chỉ phải chịu cái “quả” của cái nhân chính mình gây ra; và nếu ta tin thuyết luân hồi thì ta chịu được nỗi khổ, coi nó là một hình phạt nhất thời, mà hi vọng điều thiện ta làm một ngày kia thế nào cũng được thưởng một cách chắc chắn.

Nhưng sự thực người Ấn không chấp nhận hẳn vấn đề đời sống đó, dù đời sống miên trường theo luật luân hồi. Sống trong một khí hậu nóng nực, bực bội, thấy quốc gia lệ thuộc ngoại nhân, chính mình bị bóc lột về kinh tế, họ muốn coi đời là một hình phạt nghiêm khắc hơn là một cảnh vui vẻ, hưởng phần thưởng của kiếp trước. Các kinh Vedatinh thần lạc quan của một dân tộc bạo dạn, từ phương Bắc xuống; năm thế kỉ sau, Phật Tổ đã phủ nhận giá trị của đời sống; rồi lại năm thế kỉ sau nữa, tác giả các bộ Purana có một thái độ bi quan mà phương Tây không hề có, trừ những lúc họ khủng hoảng nhất, nghi ngờ hết thảy[31].

Phương Đông trước khi bị ảnh hưởng cuộc cách mạng kĩ nghệ, không làm sau hiểu được tinh thần quá ham sống của phương Tây; thấy chúng ta hăm hở hoạt động về kinh tế, tham lam vô độ, tìm mọi cách làm việc cho mau, cho bớt mệt, mỗi ngày muốn tiến bộ hơn, họ cho chúng ta là nông cạn, ngây thơ; họ không thể hiểu cái tinh thần của chúng ta là tránh nhìn thẳng vào cái quan trọng nhất mà nhìn đắm vào cái ngoại diện của sự vật; cũng như phương Tây chúng ta không hiểu được sự thâm thuý của thái độ thản nhiên bất động, “đình trệ”, “tuyệt vọng” của họ. Một bên là nhiệt tâm, một bên là lãnh tâm, làm sao hiểu được nhau.

Yama hỏi Yudishthira: “Trên đời có cái gì lạ lùng nhất?”, và Yudishthira đáp: “Lạ lùng nhất là người nào cũng biết rằng mình sẽ chết, vậy mà vẫn tiếp tục lăng xăng làm cái này cái nọ y như thể mình trường sinh bất tử”[32]. Trong anh hùng ca Mahabharata có câu: “Loài người đau khổ về cảnh chết, già thì suy nhược. Đêm tới rồi đi, đi luôn, không bao giờ lỡ hẹn. Khi biết rằng cái chết không khi nào ngừng một lúc thì tôi còn dùng cái tri thức làm gì đâu?”. Và trong anh hùng ca Ramayana, Sita đã trung tín, tận tuỵ với chồng trong mọi cảnh cám dỗ, gian nan, chỉ xin được mỗi một phần thưởng này, là chết:

Con đã giữ hết đạo với chồng,

Con xin được trút cái gánh nặng của đời, ôi Mẹ Đất của con ơi!

Vậy rốt cuộc, người Ấn mộ đạo chỉ cầu được sự giải thoátmokshagiải thoát khỏi lòng dục rồi giải thoát khỏi vòng sinh tử. Cảnh Niết Bàn có người hiểu là giải thoát khỏi lòng dục, có kẻ hiểu là giải thoát khỏi vòng sinh tử, nhưng phải giải thoát cả hai thì mới thật hoàn toàn. Hiền triết Bhartri-Hari giảng hình thức thứ nhất như sau:

Trên cõi trần này, cái gì cũng làm cho ta sợ, muốn hết sợ thì chỉ có cách là trút bỏ hết các ước vọng… Xưa kia tôi thấy ngày dài quá mà lòng tôi đau khổ vô cùng vì tôi mong được sung sướng như bọn giàu có; vậy mà chính thời đó tôi lại thấy ngày ngắn quá vì tôi không thoả mãn được hết thị dục của tôi. Nhưng bây giờ, thành triết nhân rồi, tôi ngồi trên phiến đá lạnh trong hang, giữa rừng núi, nhiều khi nhớ lại cuộc đời thời trước của tôi mà bật lên tiếng cười.

Còn Thánh Gandhi thì nghĩ tới hình thức giải thoát thứ nhì, ngài bảo: “Tôi không muốn tái sinh”. Nguyện vọng lớn nhất của người Ấn là thoát vòng luân hồi, khỏi phải đầu thai vào một kiếp khác. Vĩnh phúc của con người không do đức tin, cũng không do những việc từ thiện, mà chỉ do sự quên cái “ngã” của mình đi, quên thật lâu chứ không phải trong chốc lát, không cố ý, không vị lợi, tự nhiên nhi nhiên mà cho cái tiểu ngã tan hoà vào trong cái Đại Ngã, tới mức cái tiểu ngã mất hẳn đi và do đó không còn tái sinh nữa. Thế là cái địa ngục của cá thể tới được cái bến Thiên đường của toàn thể, hoàn toàn nhập vào trong cái Brahman[33], nó là sức mạnhlinh hồn của vũ trụ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34382)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16880)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22984)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13066)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21975)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22205)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14876)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23599)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24134)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23656)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17155)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19368)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27091)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14434)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13854)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22699)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14764)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17374)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12689)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13886)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10425)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14719)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17208)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12560)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12725)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10381)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28727)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10720)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11140)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16887)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15789)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13354)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12565)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11382)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13036)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19321)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12260)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28634)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10061)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21548)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12803)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17836)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26267)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11718)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10866)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22769)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12056)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10618)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11422)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11542)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant