Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

09. Quê hương muôn thuở

30 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9175)
09. Quê hương muôn thuở

QUÊ HƯƠNG MUÔN THUỞ

Quốc Anh

(Những câu thơ trong các đoạn văn hoặc trong ngoặc kép đều
được trích từ Thơ Mặc Giang)

 

Bất luận anh ở đâu, chị ở đâu, em và tôi ở đâu, hễ nghe nhắc đến Quê Hương, thì cảm nghe tâm tư tràn ngập một trời nhung nhớ; hễ nghe bàn về Quê Mẹ, thì niềm tự hào và tình nhớ thương như đang chắt lọc, lắng đọng bồi vun... Bởi Quê Hương là nơi ta bi bô tập nói, nơi đầu tiên Mẹ dẫn ta vào phân khoa đại học cuộc đời, nơi Cha nghiêm hướng cho ta leo lên đỉnh cao thành tựu. Vì vậy, xưa nay, một số bài về quê hương của thi nhân đều khiến người đọc luôn thấy hấp dẫn trong cảm giác mới mẻ tinh nguyên. Những câu thơ với chủ đề Việt Nam nguồn cội, quê hương của ngàn năm oai hùng kiêu sa, cũng được nhà thơ Mặc Giang thể hiện qua những dòng thơ rất thực, thắm thiết tình nhớ thương, nhắn gởi ý thức trách nhiệm, đồng thời cũng tạo dựng một lối về thênh thang trên “hành trang lội ngược”. Sức cuốn hút của dòng thơ về tình tự Quê Hương trong thơ Mặc Giang, thiết nghĩ, là một trong những đề tài giá trị trong thơ ông. Luận bàn về chúng, cũng như đang nói với chính mình, như đang thì thầm bên Mẹ Việt Nam, đang lặng yên lắng nghe tiếng vọng của hồn thiêng sông núi Quê Hương. Mà qua đó, chất thơ, hồn thơ, tứ thơ, nội dung thơ mang phong cách đặc biệt, mới mẻ của nhà thơ Mặc Giang đã cho chúng ta có cơ hội biết lắng đọng lòng mình, biết trân qúy Quê Hương - đất nước của những dãy núi trùng điệp in hình công Cha, của những con sông mang âm hưởng tiếng hò thân thiết của Mẹ Việt Nam.

Nhờ ý thức sâu xa về nguồn cội Việt Nam, nên trong những bài thơ nói về đất nước Việt Nam nòi giống Tiên Rồng năm ngàn năm lịch sử, Mặc Giang thường thể hiện một thơ phong tự hào, phấn kích, nhưng cũng trầm ngâm qua giọng thơ tự tin khẳng định, hoành tráng.…: 

Việt Nam còn đó non sông

Mẹ Âu, cha Lạc, con Rồng, cháu Tiên

(Non nước Việt Nam)

Rồng và Tiên, một tượng trưng cho tinh hoa tiết liệt, mạnh mẽ như cuồng phong vũ bảo, hùng hồn nghĩa khí, bất khuất, tràn đầy nhựa sống, là chúa tể ngự trị cả đại dương cuồn cuộn; một tượng trưng cho sự trong sạch, thanh cao, tâm hồn đôn hậu, liêm khiết, trong sạch, ngay thẳng, chất trực, không uẩn khúc quanh co, ngự trị cả dãy Trường Sơn hùng vĩ điệp trùng. Vì ý thức cội nguồn là con cháu Rồng Tiên là một trong những tư tưởng văn hóa truyền thống về cội nguồn quý hiếm cao sang nhất trong khởi nguyên dòng giống lịch sử toàn nhân loại, nên Việt Nam quê hương trong thơ Mặc Giang luôn là những chất liệu ngọt ngào, mênh mang lai láng, kết quyện đan thanh: 

Tổ quốc Việt Nam thật mến yêu

Cầu tre lắt lẻo nhịp cầu kiều

Đò ngang đò dọc non liền nước

Cẩm tú giang sơn thật mỹ miều

 Quê hương một dãy kết ba miền

Sông núi muôn đời của Tổ Tiên

(non nước Việt Nam non nước tôi)

Hình bóng và chất liệu quê hương Việt Nam, hậu duệ của Hùng Vương Văn Lang trong thơ Mặc Giang như là lời tự hào thi thiết của tâm can, đó cũng chính là hình ảnh của con người với quê mẹ Việt Nam tin yêu, thương nhớ, nhẹ nhàng lâng lâng như một nhà thơ đã cảm tác: 

Tôi lại về quê Mẹ nuôi xưa

Một buổi trưa, nắng dài bãi cát

Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa

Mát rượi lòng ta, ngân nga tiếng hát

Bởi quê hương trong lòng thi nhân không những là quê hương của niềm tự hào Rồng Tiên, mà qua bao biến đổi tang thương, trong chiều dài hun hút của lịch sử bế bồng năm ngàn năm, vẫn khắc sâu trong hồn sông núi quê hương những lao khổ của cha ông, nên trong Tôi chỉ là một người nước Việt Nam, thi nhân Mặc Giang viết: 

Tôi chỉ là một người nước Việt Nam

Của những nơi đất cày lên sỏi đá

Gạo thóc chua cay, đẫm mồ hôi lá mạ

Những bác nông phu tàn tạ nắng sớm mưa chiều

Nhìn những khổ đau, rách nát, điêu tàn,

Dày xéo, chất chồng trên hình cong chữ “S” 

Càng yêu sóng biển rạt rào, yêu phù sa lở bồi, yêu cảnh xanh mơn núi rừng, của từng buổi cơm canh đạm bạc chan chứa tình quê bao nhiêu, cũng chính là thương cảnh sống quê nghèo thôn dã bấy nhiêu. Quê hương bao giờ cũng mặn mà tình mẹ, dạt dào tình cha và đong đầy tình bạn. Người nông phu với con trâu, cái cày trong nắng sớm mưa chiều, một nắng hai sương luôn là hình ảnh đậm đà, chắt lọc, thắm thiết tình quê hương, đã từng khiến thi sĩ Mặc Giang ngậm ngùi trầm ngâm, rồi tuôn chảy những dòng thơ như đang thân thiết sẻ chia nỗi khó nhọc, gạt hộ giọt mặn trên ruộng đất khô cằn nước mặn đồng chua. Đây là động năng khiến dòng mực cứ chảy dài trên trang thơ khi tác giả viết về nỗi khổ nhọc của làng quê Việt Nam. Do vậy, lúc nào cũng cho chúng ta cái cảm giác, thơ của thi nhân Mặc Giang luôn là những trang thơ nóng hổi, chưa ráo mực, cho dù viết từ tháng trước, năm trước hay tự hồi nào. 

Dù hôm nay hay mai kia mốt nọ, em có làm gì đi nữa, chị có làm gì đi nữa và anh có làm chi đi nữa, thì trong chúng ta vẫn không bao giờ nhạt phai chất liệu mặn mà quê hương. Bởi sau những buổi tan trường, dọc đường về nhà, chúng ta đã từng san sẻ chia chác nhau củ sắn, củ khoai, hoặc trái sim trái mận còn non xèo đắng chát. Và khi ý thức về nguồn cội Việt Nam, về chất liệu mặn mà quê hương trong mỗi chúng ta, cũng là lúc chúng ta xác định rõ mối quan hệ thắm thiết giữa con người Việt Nam. Như trong Quê hương nguồn cội, Mặc Giang nhắc nhủ đàn em: 

Em sinh tại quê hương

Tôi sinh vùng đất khách

Dù xa xôi cách biệt

Nhưng là người Việt nam

Em máu đỏ da vàng

Nhìn tôi đâu có khác

Tóc em đen óng mượt

Tóc tôi chẳng lạ gì 

Ngăn cách không gian nào có nghĩa gì đâu, không ngăn được tình người Việt Nam. Trong bất kì hoàn cảnh nào, tôi cũng sẽ dễ dàng nhận ra em, không gì có thể làm thay đổi quan hệ thâm tình giữa mỗi chúng ta. “Dù xa cách dặm trường, tình yêu thương chỉ một”, bởi trong chúng ta, ai cũng mang giọt máu của Mẹ Âu, linh hồn của Cha Lạc và bản lĩnh của vua Hùng. Cũng chính vì vậy, nên khi nào thi nhân cũng thấy tình quê hương qua hình ảnh sông nước mênh mông, tâm hồn thi sĩ Mặc Giang cũng như ánh trăng đêm hè tỏa mát lấp loáng lung linh trên dòng sông quê hương, nơi mà thi nhân đã từng:

Đêm trăng tắm mát dòng sông

Áo phơi trước ngọn gió lồng

Cùng reo câu hò tiếng hát

Khuya về bỏ lại bến không

(Xóm nhỏ làng quê) 

Hình ảnh gắn bó với làng quê vào thuở ấu thơ này đã theo suốt cuộc đời thi nhân, là một trong những hoài niệm đẹp nhất, trân quý nhất, bởi nó đã để lại trong lòng thi nhân bao ngọt ngào; từ đó có thể dệt nên những trang thơ cuộc đời, tạo nên bao ấm nồng của những chiều đông gió bấc căm căm. Hình ảnh với bao kỷ niệm thân quen đậm màu tình quê, xanh ngắt màu xanh đồng lúa Việt Nam này khiến chúng ta phải nhớ đến một hình ảnh tương tợ của thi sĩ Tế Hanh tả trong bài nhớ con sông quê hương: 

Tôi giơ tay ôm nước vào lòng

Vẫn trở về lưu luyến bên sông

 Vâng, chính nỗi niềm yêu quê luôn vò võ thổn thức trong tâm hồn đầy nhiệt huyết, nên hình bóng quê hương Việt Nam luôn là niềm thương nỗi nhớ trong lòng thi nhân, cả hai hòa quyện đan chặt nhau như sông nhớ nguồn, như núi nhớ non, thân thiết ấm nồng như con sông quê hương từng tắm mát cả đời thi nhân Mặc Giang, khiến ông như giữ mãi mối tình ấy và luôn cảm thấy mới mẻ hấp dẫn, cuốn lôi.

Đến suốt cuộc đời, nó vẫn luôn là đầu nguồn đích thực, là hạ lưu vĩnh hằng để thi nhân kí thác nỗi nhớ niềm thương, đong đầy kỉ niệm mỗi độ thu về mát lạnh, đông đến gió rét căm căm, xuân tới rộn rã tiếng chim, hay hạ về với hương sen ngào ngạt, để rồi cất lời hoan ca như khúc nhạc khải hoàn: “ta đi trên nước non mình, ta về lưu lại bóng hình quê hương, ta đi một nhớ hai thương, ta về ta nhớ vấn vương muôn đời.” Đây chính là lời ca quê hương được dệt kết trên cung đàn thương nhớ, vấn vương, không chia lìa, không xa cách; là những bước chân chắc nịch nện mạnh trên lòng sông vách núi; là những “dấu hài vạn thuở vẫn chưa pha” trên lộ trình nâng niu và tiếp hướng về nguồn cội Việt Nam

Có được hoa trái tình thương đối với quê hương qua bao vun bồi, dưỡng nuôi, chăm bón như thế, do Người thơ Mặc Giang không những ý thức được tinh hoa nguồn cội Việt Nam, mà trước những tàng tích đau thương đất nước qua bao thời cuộc, ông còn luôn thống thiết như máu bồi trong tim, quặn thắt từng cơn như phải trăm ngàn mũi kim, hay đếm từng giọt khô giữa khắc nghiệt đông về. Trong Ta còn Việt Nam, sông núi hồn thiêng, Người thơ Mặc Giang nói:

Một nắm xương khô nghe lòng da diết,

Một giọt máu đào thấm nhuận non sông

Năm ngàn năm lịch sử, nhục vinh thành bại

Đã biết bao lần chất chồng xương núi máu sông 

Như một sự đánh động tâm tư lãng quên của những ai nếu có, hay như một sự tài bồi cho tâm lực hằng nhiên. Giang sơn gấm vóc chúng ta đã bồi đắp biết bao mồ hôi xương máu của cha anh từ thuở dựng nước cho đến hôm nay, “là tinh hoa tiết liệt qua nhiều thời đại”, chính là tất cả những gì đã kết tinh thành người con Việt hôm nay. Bởi đó là sự khơi động mạch nguồn giao cảm, sự vần vũ lại qua giữa thượng nguồn và hạ lưu, khắn khít keo sơn như hồn sông núi, buộc ràng miên viễn như hình với bóng, quyện hòa như sữa với nước giữa nhiều thế hệ chuyển tiếp qua bao thời đại. Và chính vì vậy, dù trên vạn nẻo đường đời và mưa nguồn thác lũ, thì Việt Nam trong tâm hồn thi nhân luôn là bài ca bi hùng, tự quyết: 

Nhìn chữ “S” cong cong

Sao nghe đau vời vợi

Tôi từng nghe tiếng gọi

Dân tộc Việt yêu thương

xa cách dặm trường

Tình quê hương chỉ một

(Quê hương nguồn cội) 

Càng tự hào khi nhìn giang sơn gấm vóc một cách sâu sắc bao nhiêu, thì càng nhức nhối, đau vời vợi bấy nhiêu, đó đâu không phải là ý tưởng “nhìn quê hương anh nghe nhiều cay đắng, nhìn cội nguồn tôi thấm những niềm đau?”. Cũng vì qua chất liệu quê hương ngọt ngào, qua những thành bại trôi dòng lịch sử mấy ngàn năm, thi nhân Mặc Giang trăn trở thổn thức trong tận cùng sâu thẳm của tâm hồn hình ảnh “Mẹ nằm đó, mặt lệ nhòa, không nói. Cha trầm ngâm trắng phếu bạc mái đầu.” Niềm cay đắng của anh, nỗi đau thương của tôi, nhòa lệ trong im lặng của Mẹ và dáng điệu trầm ngâm bạc đầu của Cha, đều là cùng trầm thống về quê hương, về con người Việt Nam cùng chung máu đỏ da vàng, cùng đỡ đần qua vách chắn Trường Sơn, cùng uống cạn nguồn mạch Thái Bình. Lời thơ như vượt trùng khơi bay xa giữa cõi đời huyễn mộng, chính đã mở ra lộ trình tiến bước cho “tình ca muôn thuở của người Việt Nam”, để cùng nhau đi xa hơn trên hành trình của nẻo về tình tự quê hương. 

Chừng ấy, đủ cho ai cũng thấy biết được ý thức hệ về tình Quê Hương, tình dân tộc của Người thơ Mặc Giang. Nhà thơ đã mở ra cho chúng ta lối về quê hương nguồn cội chỉ có một mà thôi, đó là lối về của yêu thương, yêu thươngđiều kiện, không mang tính tạc thù ước lệ, không đòi hỏi yêu sách bất kì thứ gì. Chỉ cần gặp nhau cho dù chưa từng quen biết, chúng ta cũng có thể ôm choàng lấy nhau mà khóc, rồi cùng nhau ôn lại “dòng lịch sử còn rung thời tiết đọng. Thuở dựng cờ, khai tổ quốc giang san”, rồi cùng khóc cười mà hát điệp khúc: “Tình quê ca khúc nẻo đường. Em reo ca khúc quê hương muôn đời ”

Đây là nỗi niềm khiến Người thơ Mặc Giang thao thức trằn trọc bâng khuâng, 60 ngày đêm liền không ngủ. Xưa, khi mất bạn, Nguyễn Khuyến nói: “rượu ngon không có bạn hiền. Không mua, không phải không tiền, không mua”. Nay, thi sĩ Mặc Giang có lẽ vì trầm tư trước đà biến chuyển xa khơi của con đò quê hương, trước ánh nắng vàng vọt hắt hiu yếu ớt vào một chiều lụi tàn dần tắt bình minh quê mẹ. Trong Kỉ niệm 60 đêm không ngủ, Mặc Giang nói: 

Hai ngọn đèn không cần phải châm dầu

Sáu mươi đêm cháy hoài không muốn tắt 

Tôi nằm yên, nghe đến từng hơi thở

Tôi đăm chiêu, nghe mềm cõi tâm tư

Sáu mươi đêm không ngủ, mang nặng hình cây đa, gốc dừa, bến nước, am tranh của quê hương; hai tháng trời thức trắng, mang nỗi niềm tình tự yêu thương, để rồi trong thanh vắng đêm trường, thi nhân còn nhớ thương luôn tất cả người anh em chị em. Ở đó như mở ra một thông điệp ngõ vào tình thương giữa con người Việt Nam: “anh với tôi đâu phải người xa lạ, dù không quen cũng gợi cảm tình người”. Cho nên thi nhân đã từng đếm từng tiếng khuya rơi rụng, từng nghe mềm cõi tâm tư, nhìn sâu vào bóng đêm trong thiết tha, đợi chờ, mong mỏi.

Từ đó, trong Mặc Giang, những dòng thơ tràn ngập triết lí sống và dạt dào tình thương, đã thâm thiết mở ra cho đồng bào Việt Nam lối về tình tự muôn thuở trên con đường “mọi nẻo hương quê, rung hồn lệ sử”. Con người Việt Nam nên phải “nâng niu trau chuốt từng ngày”, phải biết: 

Biển rộng sông dài gìn giữ điểm tô

Phải nên khuyên nhau:

Anh đi xây đắp nẻo đường

Tôi đi vá lại quê hương rã rời

(Tình ca muôn thuở của người Việt Nam

Những chuyển biến thời cuộc, những thay đổi do ý thức hệ trong mỗi thời đại, vô tình đã biến quê hương không còn như xưa, khiến con người đôi khi cũng nổi trôi theo thế vận, khiến nét mặt quê hương mang những dấu ấn phong sương thời gian, là nét rã rời biến thể của đồng xanh, nét tàn phai trơ trọi của mùa lúa chín, là âm vọng rời rạc chắp nối ứ nghẹn của điệp khúc tình tang trở về. Nên lời thơ của thi nhân Mặc Giang như đang thủ thỉ bên tai chúng ta là hãy tận lực, hãy dốc tâm, hãy hành động cho Việt Nam, cái nôi quê hương muôn thuở, nơi mang bao kỉ niệm tình Mẹ, bao hoài cố nghĩa Cha.

Nhưng điểm tô, xây đắp trau chuốt bằng cách cách nào mới vẹn tình quê? Không gì khác, đó là xây dựng, bồi đắp, bền vững hơn tình người, tình đồng bào, tình huynh nghĩa đệ. Đây chính là lúc thi nhân muốn nói: 

Dòng lịch sử, muôn đời, ta chung sống

Hồn quê hương, muôn thuở ta đắp xây

Tình anh em, mãi mãi, ta tiếp tay

Tình dân tộc, ngàn đời, không lay chuyển

 (Ta bước đi trên quê hương ta) 

Có một lịch sử oai hùng, hồn quê hương ngọt ngào đường mía lau như thế, thì anh em chị em phải gìn giữ, đắp xây, phải “tay trong tay, tình trong tình, máu trong máu”, để tình dân tộc ngàn đời không biến chuyển đổi thay. Thế mới chính là đích thực yêu quê hương, thương nòi giống Âu Lạc, trân quý nguồn cội Tiên Rồng.

Một nhạc sĩ nào đó viết về quê hương cũng khá cảm động “… quê hương, mỗi người chỉ một, như là chỉ một mẹ thôi, quê hương nếu ai không hiểu, sẽ không lớn nổi thành người.” Không hiểu, tức không biết trân quý, không xây dựng tình thương, để “cho vạn vật nhân sinh hòa điệu sống.” Không lớn nổi thành người là thành thân mà không thành danh, thành khí mà không thành chất, thành hư mà không thành thực; không thực sự cưu mang tiếng hát ầu ơ của Mẹ, tiếng hát vượt băng vách chắn thời gian; không thực sự mang hình hài cốt khí của Cha, hình hài càng sắc nét, càng linh tri theo sóng nước lan tỏa không gian

Để xây dựng tình yêu quê hương trọn vẹn trong hoàn thiện tình người, thì bước đầu tiên, phải xác lập sự thân thiện, lòng cảm thông. Nên biết rằng, hiểu nhau và thương nhau là nhu yếu khơi dòng của mạch sống, hôm qua hôm nay ngày mai, đầu tiên sau cùng và mãi mãi. Nhạc sĩ vượt thời gian Trịnh Công Sơn có lời ca như là một lời nhắn nhủ thâm thiết, là ý thức đầu nguồn không thể thiếu để thiết lập dựng xây, vun vén tình người:

Mưa vẫn mưa bay cho đời biến động

Làm sao em biết bia đá không đau!

Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng

Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau

Ngay sỏi đá, đâu phải vô tình, giữa chúng có mối tương quan mật thiết, chúng cũng biết đau, cũng cần có tình thương, cần có nhau, thì con người, chúng ta chắc ai cũng tự biết.

Thiết lập trọn vẹn tình huynh nghĩa đệ, tràn đầy ý thức cùng mang dòng máu cha ông, là lúc chúng ta hội đủ tư cách của một đấng trượng phu với phong thái: 

Ngước mặt ngẩng đầu sống dọc ngang

Cho hay con cháu giống da vàng…

(Mặc Giang, xin nguyện làm người nước Việt Nam

chính thức xác định mình trong ý thức tình tự quê hương dân tộc. Ý thơ vừa như một lời thệ nguyện kiên trinh, lại vừa như một lời khuyên chân tình của thức giả, lời kêu gọi thân thiết của người bạn hiền, lời vỗ về tâm can của cha, lời dặn dò như van lơn của mẹ. Vâng! phải cao thượng, phải khí tiết, nhìn lên không thẹn với trời xanh, ngó xuống không hỗ với đất dày, như thế mới xứng danh con cháu Tiên Rồng, mới đủ tư cách dự vào hàng ngũ hậu duệ của Văn Lang. Đã là con cháu Rồng Tiên, thì nên sống như thế; sống được như thế, mới đúng hợp với chất liệu cốt cách Tiên Rồng.

Chính nhờ thế, nên một cách khẳng khái, quyết đoán, trong Xin nguyện làm người nước Việt Nam, thi sĩ Mặc Giang đã tình tự nát cõi tâm can với non sông gấm lệ, với Linh Hồn Tiên Tổ rằng:

Kiếp sau nếu được làm người nữa

Xin nguyện làm người nước Việt Nam

Như thế, nói với chính mình, nhưng chẳng khác nào tác giả như đang nói với đàn em đó sao! Vì trong quê hương, là hơi thở của em, là nụ cười của thi nhân, như thi nhân đã khẳng định: “em vẽ một vòng tròn, tôi vẽ một hình vuông, khép hai chữ vuông tròn, thành quê hương muôn thuở”, đây là chất liệu và cũng là tiền đề để dựng xây bồi tô cho Quê hương nguồn cội. 

Có như thế, chúng ta mới càng thêm tự hào khẳng định sự tồn tại miên trường bất diệt của quê hương, đó là sự thể hiện một cách hoành tráng, rung động như trống chiêng, và cũng êm ái dịu dàng như khúc rẽ dòng sông: 

 Việt Nam tổ quốc quê hương tôi,

Thời thế thế thời dẫu đổi ngôi,

Lịch sử năm ngàn không biến đổi,

Truyền trao thế hệ mãi tô bồi

(Mặc Giang, Nguyện làm người nước Việt Nam)

Đó cũng chính là khúc hát của Việt Nam quê hương còn đó, với lời ca vang vượt cả mây ngàn và gió núi bao la: “xưa nay trang sử lựa là, lật ra một cái còn ta với mình, Việt Nam muôn thuở tồn sinh, quê hương muôn thuở như mình với ta”. Đó là cách thể hiện hùng hồn nhất tấm lòng tri ân báo ân, biết cội biết nguồn, biết trân trọng nâng niu dòng máu khai sinh, biết quý thương từng dải giang san đẫm xương máu cha ông qua bao thời đại, và đó chính là sự thể hiện “Uống nước nhớ nguồn cây nhớ cội”. Có thế mới làm cho “ngàn năm rạng rỡ giống Rồng Tiên”

Những chất liệu mặn mà của quê hương luôn thẩm sâu trong lòng thi nhân những khúc tao đàn tuyệt diệu, như những tình tự khắn khít niềm tin yêu: “thương quê từ bấy đến giờ, yêu quê từ độ bơ vơ khơi dòng”. Chính những chất liệu này càng thêm nung nấu nóng chảy niềm nhớ thương của nhà thơ Mặc Giang. Trong Thầm Lặng, thi nhân gởi trao niềm nhớ thương khôn nguôi: 

Khóc mẹ ủ gầy tận cuối quê

Thương em èo uột khổ trăm bề

Đôi tay nương níu hồn sông núi

Ước vọng ngày nao bước trở về 

Chỉ cần rung lên nỗi niềm tình tự, chỉ cần chùn xuống tận nẻo tâm tư, sẽ thấy bụi tre hàng dậu nghiêng bóng thân quen, thưởng thức được hương vị thơm ngon của trái bắp củ khoai vùi trong đống tro tàn, uống được từng ngụm nước sông ngọt lành đựng trong chiếc gáo dừa bền chắc, đen điu, bóng láng. Chỉ có qua những đậm đà hương vị thấm đượm tình quê ấy, chúng ta mới uống được luôn cả quốc hồn quốc túy Việt Nam. Chúng sẽ nuôi dưỡng chúng ta lớn thêm lên nhiều lắm, mà sơn hào hải vị năm châu làm sao sánh được!

Khúc hát tình tự về quê hương Việt Nam của Người thơ Mặc Giang mãi mãi như con tàu tình cảm dân tộc, đưa hướng ta đi trên hành trình vô tận không bến bờ, không sân ga, để tạo tựu chất liệu keo sơn, xây dựïng bồi tô cho non sông gấm vóc ba Miền, vun vén cho nghĩa đệ huynh thêm bao la. Nên dù anh có đi muôn hướng, chị có đến ngàn phương, thì chỉ có một chỗ duy nhất để trở về, và nẻo trở về Quê Hương chỉ một con đường mà thôi, con đường hướng đến chân trời xanh ngát màu xứ sở, hướng về buôn làng lúa trổ đòng đòng của đất mẹ dấu yêu. Quê hương mãi mãi là điệp khúc hay nhất trong tất cả các điệp khúc mà tôi hát cho anh nghe, cho chị nghe, và cho em nghe. Tình tự quê hương của thi sĩ Mặc Giang luôn rung động trào dâng thân thiết nhất trong các tình tự. Trong đó, chúng ta càng có cơ hội dệt thêm sắc màu của bếp lửa nhà tranh, để “ngọn lửa thêm hồng, Việt Nam trời Đông, quê hương ta đó!!!”. Nét đặc biệt trong tình tự quê hương của nhà thơ Mặc Giang khiến ta bất chợt nhớ đến lời khẳng quyết: “một câu thơ, mà còn hơn triều sóng … một ý thơ, rung động cả thiên thu”, cũng vì chủ đề quê hương đất nước của thi nhân đã mở ra cho hôm nay, cho cả mai sau lối về của ý, cõi đi về của tâm thể trên dòng đời miên viễn, xuyên suốt vô tận thời gian, bạt ngàn vô hạn không gian.

 Gió đồng nội chiều nay mát lắm, khúc mía lau như càng thêm lịm ngọt, chuyến đò ngang vẫn lững lờ đợi khách sang sông, từng cánh én đang tung mình trên nền trời quê hương xanh thẳm, em bé mục đồng đang lùa trâu về trong ráng hồng yếu ớt… Đâu đó trong gió thoảng lưng đồi là tiếng chày giã gạo liên hồi, tiếng ru hời của mẹ yêu như đang lâng lâng lan tỏa trên sông dài biển rộng mênh mông, ngút ngàn giữa núi thẳm rừng xanh bao la của con người Việt Nam. Cả thi nhân, cả chúng ta như đang từng bước chập choạng trong bóng đêm để tìm về mái tranh ấm hồng bếp lửa, ngồi bên Mẹ dấu yêu, ngồi bên Cha trầm lắng, bên anh chị em để cùng hát và kể cho nhau nghe về điệp khúc của tình Quê Hương muôn thuở. Chắc rằng câu chuyện sẽ cuốn hút, chìm sâu, lắng đọng tâm tư để nghe, nghe cho đến khi trời Đông ửng hồng!!!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14306)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14566)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11846)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14366)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13281)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14648)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12648)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25263)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27893)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26366)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17235)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16528)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15918)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22147)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17137)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24915)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21979)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19078)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16175)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21727)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16785)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14669)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16708)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25029)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18782)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21199)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14779)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14378)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16617)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18015)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12929)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14948)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12720)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13892)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14607)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28039)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27208)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14352)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20971)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14673)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24192)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28693)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14737)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13299)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16462)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27255)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12021)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16081)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21502)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12379)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant