Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

22. Sự dàn trải tài tình, nét tinh anh sáng tạo trong"Quê hương còn đó"

30 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 9074)
22. Sự dàn trải tài tình, nét tinh anh sáng tạo trong"Quê hương còn đó"

SỰ DÀN TRẢI TÀI TÌNH, NÉT TINH ANH SÁNG TẠO

TRONG “QUÊ HƯƠNG CÒN ĐÓ”

TK Thiện Hữu

 

(Những chữ in đậm nghiêng trong bài viết này là tựa đề

của những áng thơ trong Thi tập)

Quê Hương Còn Đó, thi phẩm được trải dài trên dưới 200 trang, sẽ trở thành một trong những thi tập đầu giường, gắn bó với bạn đọc xa gần. Bởi vì, thơ của Mặc Giang xưa nay đã được minh chứng hùng hồn như những đoá hoa vừa toả hương thơm bát ngát, vừa mang dáng dấp kỳ bí, để dâng hiến cho vườn hoa thi ca nước Việt. Những dòng cảm xúc đậm đặc này lại được nhân lên, rung động gấp ngàn lần, để thi sĩ tự có một chỗ đứng cùng những thi nhân tên tuổi xưa nay. Cũng chính từ ‘phẩm-lượng’ thi ca của thi tập này, Mặc Giang được quyền chạm vào trái tim cuộc đời đầy u huyền và gõ cửa tâm thức mênh mông của những tâm hồn yêu thơ thâm sâu viên diệu.

Hơn nữa, chỉ 70 áng thơ, được tác giả trình bày tài tình dưới mọi thể loại, đủ các thể tài trong cuộc sống con người. Qua đó, độc giả như có cảm tưởng, chính Quê Hương Còn Đó là người đã và đang dẫn dắt bạn đọc đi trên cuộc hành trình đầy gian lao, nhưng vô cùng ý nghĩa và quyến rủ! Vì, chính những bài thơ trong Thi tập, có khi lôi kéo người đọc vào hải đảo hoang vu, không bóng người, không tất cả, nhưng, có lúc, lại đưa bạn đọc vào giữa chợ đời ồn náo, để nhận thêm những phẩm vật thi thiết của cuộc đời. Có những bài, tuy ngôn từ rất mạnh, nhưng lại mang âm hưởng êm ái, dịu dàng cuốn hút, dễ đưa người đọc vào thế giới của Phật, Thánh, Tiên, Hiền. Có những áng thơ, Mặc Giang như một hoạ sĩ, đã phóng bút phác hoạ một bức tranh đủ màu sắc, phủ đầy hiện thực của cuộc sống, đem trang trải vào thế giới hiện hữu nhiệm mầu, bằng những vần điệu bằng trắc, tạo thành những tiếng gõ thê lương trên mặt đất, đột ngột đi thẳng vào tâm hồn con người. Lại có những áng thơ, lời và tứ thơ thỉnh thoảng như một dòng sông trong veo êm ả, nhưng lắm lúc lại vẩn đục, để mang phù sa tưới tẩm ruộng đồng và lắm khi, chính dòng sông mầu nhiệm, thiêng liêng này, lại phát ra sức lan tỏa lạ kỳ, tạo thành những âm thanh trắc tận, những âm thanh lâng lâng trong tận cùng ngôn ngữ của thi ca. Chính những yếu tố quan trọng này, sẽ làm nền cho Thi Phẩm có tác dụng sâu xa hơn trong lòng người đọc, tạo một nhịp cầu giao cảm, giúp người đọc dấy lên nhiều tầng giao hưởng văn nghệ, kết thành sợi giây rung động chân thành, ấm áp, bao phủ tình người.

 Mặt khác, đọc Quê Hương Còn Đó, người đọc không những được bàn tay nâng niu nhẹ nhàng, hướng về Quê Hương Địa Lý, nơi vừa có nỗi mệt mỏi chán chường, vừa có những kỷ niệm thiết tha, êm đẹp khó quên, mà chính tác giả còn cho người đọc thưởng thức một Quê Hương Tâm Thức bát ngát mênh mông, nhiều tầng sống động, gắn bó với đời sống thường nhật. Trong bài này, người viết chỉ đi vào hai nội dung tiêu biểu nhất trong thi tập. Đương nhiên, ngoài những nội dung trên, Quê Hương Còn Đó còn ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa đậm đà, thi vị và phong phú khác.

 I. Quê hương tâm thức:

 Nếu như hồn thiêng sông núi Việt Nam còn và vang vọng mãi trong lòng thi sĩ, thì, tiếng tâm thức yên bình, tĩnh lặng thiêng liêng luôn nằm sẵn, đợi chờ nhà thơ cho thêm hoa trái. Đây chính là phút giây tao ngộ kỳ bí của kiếp người, của áng mây bảng lảng trôi về cõi trời Hy Mã, hay của vũ trụ siêu cùng hoà nhập với thế giới vĩnh hằng trên lộ trình phát triển tâm linh, trở về quê hương tâm thức:

 Tôi bước đi chưa hết một lộ trình

Chân chưa mỏi trên nẻo đường vạn dặm

Núi dốc, biển đồi, đưa tay bắt nắm

Cát bụi, gió sương một cõi trần gian

Nụ chớm ban mai, cánh lỡ chiều tàn

Trước mặt, còn bao nhiêu lối dọc đường ngang

Sau lưng, mờ dấu nét rong rêu bỏ lại….

(Bùng Vỡ)

Những bước đi của Mặc Giang đã làm Bùng Vỡ và khai phóng vạn nẻo dặm trường. Đi trong bụi cát mịt mù của phong trần dâu biển, đi đến tận nẻo luân hồi để tìm câu trả lời cho cuộc thế. Đi để tìm một đáp án, một minh triết an bìnhhạnh phúc chân thật nhất trần gian, dẫu biết được, đường đời có vạn dặm hay tỉ dặm, nhưng, đôi chân của Thi sĩ chưa từng thấy mệt mỏi, chưa một lần chùn bước trong gió sương lạnh buốt, trên sa mạc hoang vu. Mạnh dạn bước tới, Bước Đi Rơi Rụng Mây Ngàn, nhưng không thấy bóng dáng của Ngã Nhân, không còn gì để bám víu vấn vương. Chính tâm hồn hướng thượng, nhìn về phía trước, nhìn vào đời sống thực tại nhiệm mầu này đã làm cho nhà thơ trở thành kẻ lang thang từ vô lượng kiếp, đã khiến cho Ta Cùng Em Hiện Hữu Vô Cùng, mạnh dạn mở ra một con đường chân chánh:

Từ vô lượng kiếp

Đến tận mai sau

Trên lộ trình sinh tử

Sáu nẻo xuống lên

Ta cùng em

Như bóng theo hình

Như vang theo tiếng

Như ánh Đạo vàng

Mở đường chân chánh….

Ta cùng em hiện hữu vô cùng!

(Ta Cùng Em Hiện Hữu Vô Cùng)

 

 Tiếng thiết tha mời gọi trong không gian vô cùng đã tạo thành một âm thanh cao vút, thánh thoát, bay ra tận thời gian mênh mông, để rồi, chính sự hiện hữu nhiệm mầu này lại kết duyên trời đất, vang vọng lại chín tầng mây, đi vào mười phương ba cõi, để thẳng tay xô ngã những cuộc lữ oan nghiệt trong đời và nhẹ tay kết thêm hương hoa giải thoát, phụng hiến nhân loại.

Cuộc lữ vốn dĩ đã khắt khe, oan nghiệt, tưởng đâu trong muôn kiếp u hoài, trong trầm luân khắc khoải, trong tiếng gào thét của từng mảnh đời hoang lạc, sẽ không còn lối thoát, không còn gió mát trăng thanh, không còn những tâm hồn siêu thế, nào ngờ, cũng chính tại trần gian diễm kiều tuyệt đẹp này, chính trong lẽ sắc không tan biến đó, Một Cõi Phù Sinh Hiện Về, Mặc Giang đã đưa hai tay dâng đời một Nụ Hồng Cho Em và cho cả người thơ:

Hỡi mười phương ba cõi

Hỡi muôn kiếp u hoài

Bao trầm luân khắc khoải

Sao cứ mãi lạc loài…

Tôi sụp lạy cúi đầu

Xin kết một đài sen

Chấp tay dâng khắp cõi

Gởi cho em nụ hồng

Nụ hồng hai cõi sắc không

Sắc không hai cõi nụ hồng cho em

(Nụ Hồng Cho Em)

Trong cõi sắc sắc không không, Mặc Giang đã cho khai mở một Nụ Hồng. Nó là kết tinh của trái tim cảm xúctrí tuệ siêu việt. Cũng trong cõi sắc không này, lại được nhà thơ vun đắp lên phần đất Việt Nam và phần đất tâm linh của mình để chăm phân tinh cần, tưới nước từ bi và cho hé nở Một Nụ Cười vi tiếu. Ở đây, rõ ràng, người đọc cảm nhận nơi tác giả một sức sống nội tâm dào dạt, một vũ trụ quan siêu thế tuyệt vời, để rồi, ở một đoạn khác trong Thi tập, Mặc Giang nhìn dòng sông tâm thức như chính Tất Đạt đã từng lặng hụp bên sông Ni Liên năm nào:

Đôi tay nâng một cành hoa

Ngàn sao lấp lánh ngân hà rụng rơi

Đôi chân một bước trong đời

Tử sinh nín thở, hết lời nỉ non

Sông xưa bến cũ vẫn còn!!!

(Dòng Sông, Tôi Gọi Tên Em)

Khi thấy tất cả như vẫn còn nguyên vẹn, Mặc Giang lại một mình cất bước rong chơi trong cuộc sanh tử. Nhưng, dù rong chơi trong cuộc tử sanh, lúc nào nhà thơ cũng hăng hái, cũng thoát kiếp, cũng phát sáng để phá tan những đêm tối vô minh, để xoá mờ chiếc bóng phù vân đang lập loè, thấp thoáng trong cuộc phong trần:

Tôi đi cho hết phong trần

Luân hồi chiếc bóng phù vân ngại gì

Tôi đi, còn đó tôi đi

Trần gian đứng lại, cớ chi ngại ngùng

Tôi đi vô thỉ vô chung

Thỉ chung đứng lại, đợi cùng tôi đi!!!

(Tôi Đi, Còn Đó Tôi Đi)

Đi cho hết nẻo trong quê hương tâm thức, đi để mỉm một nụ cười, để soi sáng cuộc đời trước bình mình chim hót, hay trong lúc tử sinhvạn hữu vẫn còn nói tiếng chia tay, thì, cuộc lữ đó quả là tiếng đại hồng chung ngân trong đêm dài sâu thẳm, để, cùng lúc ngân vang trên ngọn đồi vô thỉ. Chính tại đây, tất cả nỗi đớn đau của kiếp người, những đắng cay của cuộc thế sẽ dần dà lịm tắt, để Xin Cho Em Một Đoá Nhiệm Mầu và để trên khuôn mặt rạng rỡ, dịu dàng của người thơ, đoá Sắc Không Mỉm Nụ:

….

Biển sông nào khác núi đồi

Tử sinh còn ngắn hơn hồi chuông ngân

Tay cầm hạt chuỗi chưa lần

Long Hoa đã hiện, Linh Sơn chưa tàn

Ngược dòng thời gian

Đứng trên đồi vô thỉ

Vạn hữu mênh mang

Lưu tận đáy vô chung

Sắc, Không mỉm nụ vô cùng !

(Sắc Không Mỉm Nụ Vô Cùng)

Khi nào sắc không mỉm một nụ cười thì khổ đau không còn hiện hữu. Phải chăng, đó chính là kết quả của những năm dài chồng chất bụi mờ huyễn tượng, đó là những đêm ngày lắng nghe tiếng gọi của thời gian, hay, đó là nét chấm phá ngoạn mục mênh mang trên đôi vai rắn chắc của nhà thơ. Để rồi, từ đó, Mặc Giang dứt khoát chấp nhận vui với Cái Đẹp Vô Thường, vui với kiếp sống lang thang và mạnh dạn lê bước nhiều lần để thấy được bến bờ sinh tử:

...

Tôi ra đi trên dòng nước lê thê

Nhìn dòng sông thấy đôi bờ sinh tử…..

Tôi khép chữ vô chung

Leo lên đồi vô thỉ

Thỉ chung chỉ là tiếng gọi của thời gian

Tôi vỗ bàn tay, một tiếng nổ vang

Vỡ tất cả bụi mờ huyễn tượng

Vô là không tướng

Hữu sao chẳng còn

Chấm một điểm son

Em tôi bất diệt

Em tôi còn đó

Tôi lại ra đi

(Chấm Một Điểm Son, Em Tôi Bất Diệt)

Chỉ một điểm son xuất hiện, thì vô thỉ, vô chung sẽ tan biến trong tiếng nổ vang của bàn tay, hay chỉ chấm một điểm son, thì tất cả vạn hữu vũ trụ hoà vào bụi mờ huyễn tượng để siêu thoát bất diệt, bất sanh. Và cũng chính nét huyễn tượng diễm kiều, diệt sanh, sanh diệt này, lại phát sanh, hoá sanh một điểm son bất diệt khác và sẽ còn mãi trong lòng nhân thế, để tạo ra những nét chấm phá đặc kỳ, tiếp tục trở về quê hương địa lý!

II. Quê hương địa lý:

Như bao người ly hương, Mặc Giang cũng đã Âm Thầm nhớ nhà, nhớ nước, nhớ bè bạn gần xa…, và tất cả những ân tình cao quý thiêng liêng đó đã hoà lẫn với vạn nỗi thống khổ của kẻ hoài vọng cố hương, đã dệt thành bức tranh sơn mài lóng lánh sắc màu.

Trong chiều hướng đó, người đọc dễ dàng cảm nhận rõ ràng từng hơi thở của tổ quốc, từng giọng nói nụ cười, từng giọt lệ đau thương của Mẹ Việt Nam Muôn Đời, để trong phút giây thiêng liêng tương ngộ này, người thơ đã cho trái tim trinh thành bật thành tiếng nức nở cõi lòng, tiếng thảng thốt quê hương:

Thời gian đếm mãi nào hay

Nghe không Mẹ gọi đêm rày đầy vơi

Hương hồn Tổ Quốc ai ơi

Hương hồn Tổ Quốc của người Việt Nam!

(Tiếng Lòng Nức Nở Quê Hương)

Chính tiếng thảng thốt nức nở kéo dài vô tận này, đã hun đúc cho nhà thơ thốt lên tiếng gọi Mẹ thống thiết bi thương, đã làm cho thi sĩ phải ngậm ngùi đốt nén tâm hương réo gọi Hương hồn Tổ quốc.

Rồi Từng Cuộc Hành Trình trong đời mình, thoáng nhìn về tương lai, về cuộc đời bắt đầu hé mở, Mặc Giang đủ hùng tâm, hùng lực lao vào cuộc sống, hoà nhập với môi trường mới trong tâm thái thiết tha mời gọi. Điều này, đã giúp cho thi sĩ phóng tầm mắt xuyên suốt từ con ngườihoàn cảnh hiện tại của Việt Nam. Để chính mình quyết định, bước chân qua những tảng san hô phủ đầy rong xanh của đại dương kinh hoàng, bước chân qua những khổ đau cùng cực của kiếp tha phương, để dấn thân tìm về thế giới tự do tinh khiết của ánh mặt trời chân lý:

Người đi thôi thế là xong

Người về thôi thế buồn không đêm dài

Đưa tay tìm bắt nhạt phai

Một tan hợp nữa cũng dài tháng năm !!!

(Một Chuyến Giã Từ)

 Lẽ tan hợp của năm tháng ngắn dài là thường nhiên và minh nhiên của tạo vật. Nhưng, trải qua những phút giây tan hợp, chiêm nghiệm những mảnh phù du đáng nhớ này, nhà thơ để cho nhịp đập con tim hoà quyện vào đời sống, nở ra muôn vàn đoá hoa kỳ bí nhiệm mầu, tô thêm bức chân dung trác tuyệt mang nhiều nhiễm thể của cuộc đời.

Từ đó, chính cuộc sắc không tan hợp này, đã nuôi lớn nhà thơ, cũng như chính Mặc Giang đã được ươm mình, tắm mát trong đất nước Việt Nam, trong ‘tang điền thương hải’. Để rồi, hồn thơ của thi sĩ không những chứa chan những nỗi u hoài của nhung nhớ quê nhà, mà còn có sức mạnh tinh thần vững chãi, dung chứa cả một Non Nước Việt Nam. Chính sức mạnh tinh thần này đã giúp Mặc Giang vẽ lại bản dư đồ hình cong chữ “S” một cách tuyệt vời bằng chất nhựa của đau khổ, bằng trái tim trinh thành rung động, êm ả thiết tha nhung nhớ quê hương và để là nơi trú ẩn cho những ai tìm về nguồn cội:

Tôi xin mở bản dư đồ hình cong chữ “S”

Ngắm từng Tỉnh, từng Vùng

Của nước Việt dấu yêu

Của giang sơn cẩm tú mỹ miều

Cho dòng giống Lạc Hồng gìn giữ nâng niu….

Việt Nam sông núi Ba Miền

Bắc Nam Trung, quyện an nhiên muôn đời

Hình Cong Chữ “S” nơi nơi

Non non nước nước của Người Việt Nam.

(Non Nước Việt Nam)

Non Nước Việt Nam đã trở thành bài ca ngọt dịu, đằm thắm trải dài trong trái tim hạnh phúc của người dân Việt. Hai tiếng Việt Nam còn được cấu thành bởi nhiều bàn tay, con tim khối óc của lịch sử hào hùng và được viết thành Điệp Khúc Quê Hương:

 Tôi hát khúc nhạc Trường Sơn

Cao vút núi non hùng vĩ

Tôi ca âm điệu Thái Bình

Rào rạt biển cả mênh mông

Nối liền tình biển nghĩa sông

Tình non nghĩa nước một dòng hùng ca

Bắc Nam Trung thật đậm đà

Ba miền đất nước một nhà Việt Nam…

Tôi hát tiếng kiêu sa, dựng cờ lịch sử

Tôi hát tiếng oai hùng, bảo vệ non sông

Năm ngàn năm, mãi khơi dòng

Kết tinh thành mảnh hình cong dư đồ

Giang sơn gấm vóc điểm tô

Non sông cẩm tú nên thơ diệu kỳ…

(Điệp Khúc Quê Hương)

 Không phải chỉ có điệp khúc quê hương diệu kỳ mới kết tinh thành mảnh dư đồ hình cong chữ S. Không phải chỉ có sông núi nhấp nhô mới gọi hai tiếng quê hương. Không phải chỉ có con đò đong đưa sóng nước của miền thuỳ dương cát trắng, mà độc giả còn thấy cả một sự dàn trải sông biển nối liền, núi non hùng vĩ, từ khúc nhạc Trường Sơn đến âm điệu Thái Bình. Từ lịch sử hào hùng, dựng cờ mở nước, đến tiếng nói oai hùng bảo vệ non sông. Chất thơ vừa thơm dịu của lúa chín đầy đồng miền Nam, vừa ngọt bùi lịm ngất của đường lau xứ Quảng, hay cả sự thiết tha, hiền thục của phụ nữ Việt Nam, đã nhịp nhàng tạo thành những áng thơ trĩu nặng tình người, đang rụng rơi từ trái tim hạnh phúc của Mặc Giang.

 Hơn thế nữa, Điệp Khúc Quê Hương còn là bản hoà âm tuyệt tác, tạo thành ca khúc oai hùng từ năm ngàn năm về trước và nhiều ngàn năm sau nữa. Nơi đây, nhà thơ đã biết cách trộn lẫn những nỗi niềm ray rứt của mình, của tha nhân thành nỗi niềm của dân tộc, từ đó, đã dễ dàng thấu thị tận căn lịch sử non sông và đã trân quý nét đẹp tuyệt vời của sơn hà cẩm tú Việt Nam.

 Những nơi khác trong Thi Tập, xuất phát từ tấm lòng thiết tha, yêu quê cha đất tổ, bắt nguồn từ nỗi khổ của thân phận người Việt trong, ngoài, tác giả còn cho người đọc thấy được những đoạn phim sống thực, kết hợp với ngàn nỗi đoạn trường của một góc đời, một góc xã hội Việt Nam, để, trong những phút giây chạnh lòng thương nhớ quê nhà, Mặc Giang dựng lại bức tranh hiện thực qua nhiều hình ảnh đau thương của hậu quả chiến tranh, của một vết đen trong lịch sử Việt Nam. Để rồi, người thơ làm một cuộc chuyển mình, thật sự hoá thân thành Một Người Khùng, Một Người Câm, Một Người Công Nhân Viên, Một Người Đạp Xích Lô, Một Người Chinh Nhân, Một Người Lái Xe Đò, Một Người Khuyết Tật, hay thậm chí nhập vai vào kiếp sống, Thân Phận Người Mù, hoặc Em Bé Mồ Côi giữa chợ đời náo nhiệt.

Chính những vần thơ vừa bi thương, vừa xót xa, vừa thực tế này, lại là một minh chứng rõ ràng về đất nước Việt Nam, cũng như về phong cách thi ca của nhà thơ. Bởi lẽ, tác giả đã tài tình, khéo léo kết hợp những chủ đề sống thực, những hình ảnh sống động từ con người, từ cuộc sống, để phác hoạ một bức thuỷ mạc hoàn toàn đủ đầy màu sắc nhân sinh, vũ trụ, nội giới ngoại giới của một Việt Nam hiện nay.

 Rồi những ray rứt lương tâm như đã nằm sẳn trong lòng Thi sĩ, nên chỉ trong một đêm dài sâu thẳm nhung nhớ quê hương, hay những buổi sáng tinh sương với chén trà độc ẩm, trong khoảnh khắc của thời gian, thoáng nhìn những hạt bụi mịt mờ bên bờ lau, Mặc Giang cũng thừa khả năng thi hoá thành một bài thơ tự do tuyệt tác:

Gió lộng Trường Sơn, núi rừng hùng vĩ!

Sóng bạc Thái Bình, biển cả mênh mênh!

Tiếng khóc quê hương tê tỉ ruộng đồng

Tóc mẹ trắng, xoã chiều dài lịch sử

Bàn tay mẹ, đưa con về tình tự

Mái lều tranh, ấp ủ những ngọt bùi

Con là gì, cũng là đứa con thôi!

Con của đất nước ngàn xưa để lại…..

Anh và tôi, đã biết nhau

Quãng đường dài, quá đủ!

Lăn lộn chi, cho tóc mẹ thêm màu

Anh hãy quay đầu, bóng tối chìm sâu

Tôi cuốn bờ lau, bụi mờ bỏ lại….

(Cuốn Một Bờ Lau, Bụi Mờ Bỏ Lại)

 Tâm sự với Mẹ, với cuộc đời, như tâm sự với chính mình, Mặc Giang đã tự nhận mình là đứa con của đất nước ngàn xưa và Chỉ Là Một Người Việt Nam hôm nay. Đã quá đủ với chuỗi thời gian dài, bao nhiêu đoạ đày, trộn lẫn với nghìn muôn thống khổ, với vạn nỗi đau khi nhìn về quê hương. Những nỗi sầu vương vây kín, người thơ tiếp tục nhẫn chịu, tiếp tục lê bước và tự hứa sẽ trở về thăm dù chỉ một lần:

Mai mốt tôi về thăm quê cũ

Thăm lại nỗi niềm bóng dáng xưa

Thời gian đếm mãi làm chi nhẽ

Khung trời le lói bóng sao thưa…

Hẹn hò chuyến nữa sẽ về thăm

Cùng bao nhiêu chuyến rải lên thêm

Hương quê gởi gấm tình quê cũ

Trăng lặn dòng sông đêm mấy canh

(Mai Mốt Tôi Về Thăm Quê Cũ)

 Trong cái hữu hạn của đời sống, trong cái buồn vô hạn của nhớ nhung, Mặc Giang đã nhiều lần đứng tần ngần, nhìn trời đất hiu quạnh, nhìn sóng biển rì rào, để cho những giọt khô vo tròn nơi khoé mắt, rồi tự mình gởi gấm tình quê trong nỗi lòng thương nhớ khôn nguôi. Chất thơ và tâm hồn Mặc Giang cùng lúc đang run rẩy, rạn nứt, tạo ra những âm ba rung động cao độ, vừa xót xa đau đớn khôn tả, nhưng lại thành tâm chấp đôi bàn tay cầu nguyện:

Xin đứng lại bên bờ

Dòng sông xưa lặng lẽ

Dù ngàn năm vẫn thế

Hai tiếng gọi Việt Nam

(Xin Chắp Đôi Bàn Tay)

Dẫu sao đi nữa, hai tiếng gọi Việt Nam vẫn luân lưu chảy trong dòng máu của người con Việt. Việt Nam Quê Hương Tôi, Việt Nam là cõi đi về, là nơi chốn để yên tâm nương náu. Cho dù những mảnh đời có tan nát đến đâu chăng nữa, cho dù những tâm sự của người thơ có kéo dài vượt thoát khỏi không gian chăng nữa, cho dù người thơ có thất vọng, chán chường, không chỗ suy lường toan tính đi nữa, cho dù tâm hồn thi sĩ có đơn côi, cô độc kéo dài bất tận chăng nữa, nhưng, cuối cùng, nỗi đồng cảm của kiếp nhân sinhtâm hồn đồng hương cao thượng của Mặc Giang cứ hiện về trong giấc mộng, cứ hiện hữu trong suy tư. Đó là một hồi quang tuyệt diệu của truyền thống Hùng Vương, đây là điều bí ẩn của tấm lòng tha thiết nhung nhớ đất Mẹ Âu Cơ muôn đời. Tưởng rằng đã chết, nhưng Quê Hương Còn Đó Đợi Chờ, tưởng rằng hoại diệt, nhưng từ nay đất Mẹ vươn mình sống lại:

Mẹ đã chết, nhưng từ nay Mẹ sống

Ba mươi năm, chợt như tỉnh mộng

Bảy mươi năm, một cõi đi về

Anh chị em, tắm gội tình quê

Sông bến cũ, gừng cay muối mặn

Ba mươi năm, Tình Dài Hoá Ngắn

Bảy mươi năm, Một Cõi Đi Về !

(Tình Dài Hoá Ngắn, Một Cõi Đi Về)

Đời sống cứ nghiệt ngã trôi qua, hết ngày rồi lại đêm, hết đêm rồi đến ngày, cứ thế mà tiếp tục trôi lăn mãi. Ba mươi năm hay bảy mươi năm, thậm chí cả trăm ngàn năm, tất cả đều phủ lên đầu người thơ một không gian trắng xoá.

Từng sợi thương, sợi nhớ như bị nung nấu liên hồi. Chính sự nung nấu này, một lần nữa lại là điểm chiếu soi để Mặc Giang, từ một con người tràn đầy nhựa sống, nhiều mộng ước năm xưa, hôm nay đã trở thành người của quá khứ, bị bào mòn bỡi nắng cháy, mưa dầu. Trong cuộc hành hương bất định, tưởng rằng Từ Đó Xa Mờ với đời sống ly hương vô thời, tưởng như Từ Ly Ngày Tàn với cuộc sống bị hối thúc bỡi thời gian, nhưng, người thơ vẫn một lòng thênh thang cất bước Nối Một Nhịp Cầu và vẫn cứ dạo gót trên quê cha đất tổ của mình:

Ta đi trên nước non mình

Ta về lưu lại bóng hình quê hương

Ta đi một nhớ hai thương

Ta về ta nhớ vấn vương muôn đời

Tình quê, xin gởi nụ cười

Hồn quê, xin gởi con người Việt Nam

(Ta Đi Trên Nước Non Mình)

Hồn quê còn đó trong lòng thi sĩ, tình quê nồng cháy trong tâm Mặc Giang. Chính hai điều này, là chất keo kết tinh những giọt nước thương yêu và những dòng cảm xúc, để phần nào vun xén xuống mảnh đất thân yêu Việt Nam- nơi nhà thơ từng sinh sống, nơi trộn những kinh nghiệm khổ đau hạnh phúc và nơi tâm hồn thi sĩ đã từng thở những hơi thở tươi mát của hồn thiêng sông núi. Chính những chất liệu nhiệm mầu này, đã biến thành máu đỏ trong tim, để nuôi lớn nhà thơ và đã làm cho chất thơ của Mặc Giang có nét riêng tuyệt vời như non sông nối liền một dãy:

Tôi vẽ một người Việt Nam, máu đỏ da vàng

Tôi vẽ một nước Việt Nam, gấm vóc ba miền

Tôi vẽ một nước Việt Nam, sông núi hồn thiêng

Trao từng thế hệ ngàn sau gìn giữ

Còn sức sống, còn nhịp tim đang thở

Còn da vàng, còn máu đỏ trong tim


Là còn Việt Nam một dãy nối liền

Là còn Việt Nam, sông núi hồn thiêng

(Ta Còn Việt Nam, Sông Núi Hồn Thiêng)

 Tóm lại, nếu đọc hết toàn bộ Thi Phẩm, đọc trong tâm thái tĩnh lặng hoàn toàn, người đọc sẽ bắt gặp Thi nhân ít nhiều đã ảnh hưởngkế thừa những di sản tinh thần của nền thi ca nước Việt. Nhưng, với thiên tư vốn có, với hồn thơ dạt dào, với kinh nghiệm sống viên dung, Mặc Giang đã có những tiếng nói, những ngôn từ riêng, những thao thức cá biệt và những kinh nghiệm tư hữu của đời mình. Chính những kinh nghiệm này, không những sẽ bị rụng rơi, sẽ bị bào mòn theo luật đào thải của thời gian, mà còn được Thi sĩ sản sinh trở lại nhiều áng thơ bất hủ, cũng ngay tại trần gian vừa đau thương vừa dễ thương này, góp phần định vị, thi vị và bừng hoá những gía trị của kiếp người.

 Mặt khác, Quê Hương Còn Đó không chỉ là một Thi Tập dung chứa cõi sầu vương chất ngất, hòa lẫn với những âm thanh hối thúc ngàn trùng, vừa bám víu, quyện chặt, vừa lan toả mù khơi, mà còn cho những áng thơ trác tuyệt, phóng đẩy người đọc vào không gian mênh mông bát ngát, để đánh thức lương tâm, lương tri loài người. Bởi vì, trong kiếp nhân sanh đa mang, đa đoan này, lắm lúc con người vì cuộc sống đã dễ đánh mất hay quên ý thức về sự hiện hữu của đất tổ quê cha, của hồn thiêng sông núi, nhưng không vì thế mà ánh sáng chân lý của quê hương tâm thức hay lời thiết tha mời gọi của quê hương địa lý không chiếu sáng, không lung linh, không réo gọi lòng mình. Chính điểm này sẽ giúp cho Quê Hương Còn Đó hiện hữu mãi, lung linh phát sáng mãi trong đêm dài vô tận của kiếp người hữu hạn

Hơn nữa, khi đọc Quê Hương Còn Đó, người đọc còn nhận thấy những nền âm thanh của quê hương địa lý có lúc bi thương hùng tráng ì ầm trong ký ức, có khi lắng sâu dưới tầng vô thanh của quê hương tâm thức, để, vừa tạo thêm nét bi hài, vừa phát ra nét mỹ miều cho những áng thơ trở thành trác tuyệt. Chính tính chất tương phản này, đã làm cho thơ của Mặc Giang trở thành đặc biệt. Bởi lẽ, ngôn ngữ và nội dung của Thi Phẩm có công năng xoáy sâu vào vùng cảm xúc người đọc, sau đó, tạo thành lượn sóng phủ lấp, tuôn sâu vào những ngõ ngách của tâm hồn con người.

 Ngoài ra, đọc Quê Hương Còn Đó, ta lại nhận ra trong hơi thở mênh mang ngút ngàn sâu thẳm của thời gian, chất thơ của Mặc Giang không những lại mang dáng dấp không gian buồn hiu hắt, vừa co se vừa dàn trãi ra được trong những đêm mưa sụt sùi. Nhưng, lời thơ, ý thơ, sức sống của thơ lại hoàn toàn mới mẻ tinh anh, vừa mang nét phóng khoáng của thời đại, vừa mang dáng dấp cổ phong ngun ngút, êm ái ngọt ngào. Vì thế, chắc chắn trong Thi Tập này, sẽ trổ ra cho cây đời một giống hoa thiêng hương diễm tuyệt.

 Giống hoa thiêng hương này rồi cũng sẽ bị dòng thời gian bào mòn như những tảng đá thanh u cứng chắc kia, nhưng, trong sự bào mòn cần thiết này, thời gian sẽ tự động trao cho Quê Hương Còn Đó trách vụ lên đường khi Thi Phẩm chào đời. Để từ đây, với tính chất thơ ca bay bổng, chứa chan dòng máu miệt mài khát khao vươn tới, khát vọng quay về, Mặc Giang sẽ tự tạo ra một chất phát sáng âm thầm hay ngây ngất luân lưu bất tận chảy vào lòng người đọc. Vì vậy, Quê Hương Còn Đó sẽ trở thành một trong những Thi Phẩm độc đáo, riêng biệt của Mặc Giang. Bởi lẽ, nhà thơ đã biết kế thừa, kết hợp, chọn lọc một cách nhuần nhuyễn ngôn ngữ Việt Nam, để bày tỏ quan điểm, thái độ và những cảm xúc của mình. Những giao cách đặc biệt này, đã làm cho ngôn ngữ thơ của Mặc Giang trở nên kỳ lạ và kỳ diệu. Đây chính là thứ ngôn ngữ được nghiền ngẫm sâu sắc, được nung cất kỹ lưỡng, được tái tạo và hoá sanh một cách tuyệt vời.

 Cuối cùng và hơn hết, Quê Hương Còn Đó còn là một dấu chỉ đặc biệt, làm cho bạn đọc gần xa thấy được bức chân dung của Mặc Giang. Đồng thời, qua Thi tập, Thi sĩ đã cho người đọc cảm nhận được thế giới quan sống động của mình, và chính thế giới mang dáng dấp vừa trần gian vừa siêu tục này, sẽ hiện hữu trong lòng người đọc như một sinh thể bất phân ly!!! 

(Úc Châu, ngày 01 tháng 11 năm 2005. T.K.Thiện Hữu)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14294)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14559)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11839)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14346)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13261)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14625)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12636)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25212)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27854)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26328)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17219)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16521)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15905)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22123)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17124)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24886)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21942)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19055)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16165)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21716)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16776)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14662)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16695)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25022)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18766)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21195)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14771)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14370)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16603)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18004)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12913)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14937)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12693)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13881)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14596)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 27990)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27156)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14341)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20925)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14664)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24166)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28652)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14728)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13279)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16433)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27214)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12015)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16066)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21456)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12373)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant