Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

HAI: Nỗi Đau Giữa Lòng Quê Hương

13 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 9321)
HAI: Nỗi Đau Giữa Lòng Quê Hương

TUỆ SỸ ĐẠO SƯ

Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2


Tác giả: Nguyên Siêu
Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang
In lần thứ nhất
California - Hoa Kỳ 2006

flowerba


Hai

 

Nỗi Đau Giữa Lòng Quê Hương

 

 

Ba mươi năm qua, bao lớp người đã ra đi. Có những người ra đi vì bị tù đày lao động trên tận núi sâu rừng thẳm, nơi miền hoang dã cheo leo nước độc. Có những người đã thực sự nằm xuống, không một nấm mồ, không một người thân trong giây phút cuối, không một tiếng khóc tiễn đưa. Ra đi trong cô đơn hiu quạnh, không một lời kinh cầu siêu độ.

Biết bao người đã ra đi lặng lẽ, đơn độc vào lòng quê hương, nhưng tên tuổi còn mãi lưu truyền, muôn đời bất diệt“Anh hùng tử nhưng khí hùng nào tử”. Những người con dân nước Việt đã hòa quyện xác thân vào trong từng gang tấc đất để làm xanh tươi cỏ cây hoa lá, lúa mạ ruộng đồng; hòa quyện trong từng giọt mưa, tia nắng để làm rạng rỡ quê hương yêu dấu, trong tình tự nồng ấm của giống nòi Hồng Lạc, Rồng Tiên. Và bao người đã hy sinh xương máu cho quê hương dân tộc để viết nên dòng sử Việt: “Quê hương tôi nên thơ gấm vóc. Quê hương tôi oai hùng với bao anh hùng liệt nữ. Quê hương tôi có các bậc anh tài tinh hoa dân tộc. Quê hương tôi có các bậc Tổ Đức Thiền gia. Quê hương tôi có hơn bốn nghìn năm lịch sử. Quê hương tôi rạng ngời dưới ánh mặt trời. Quê hương tôi khiêm cung bình dị như ánh nắng sớm mai tỏa nhẹ khắp ruộng đồng nuôi sống giang sơn gấm vóc ngày thêm ấm no hạnh phúc. Quê hương tôi thanh bình như đêm trăng miền thôn dã vóc dáng chân tình hiền hòa.”

Thế nhưng, trước năm 75 ở miền Bắc và sau 75 ở miền Nam, tất cả những nét tinh hoa đặc thù của dân Việt từ truyền thống văn hóa, giáo dục, tôn giáo, lễ nghi, đạo đức cho đến kinh tế, xã hội, từ thiện... đều bị dập vùi phá đổ.

“Cây có cội. Nước có nguồn. Chim có tổ. Người có Tông.” Nếp sống cổ truyền của dân tộc đầy tình nghĩa, thuần hậu, chơn chất với ý nghĩa cao đẹp của những ngày đầu năm mới, tạo thành phong tục tập quán, thành Văn hóa mỹ miều của đất nước, được duy trì gìn giữ từ hàng nghìn năm qua của ông bà Tổ tiên. Phong tục, tập quán đó, nói lên tâm tình quê hương dân tộc, mà suốt dòng lịch sử nước nhà luôn vang vọng như âm ba cảnh tỉnh, nhắc nhở đàn con cháu phải luôn tôn vinh truyền thống tốt đẹp ấy. 

 

Chưa thời đại nào của Lịch sử Việt Nam chối bỏ nếp sống cao đẹp ấy. Thế nhưng, khó ai tránh khỏi ngậm ngùi khi đọc Thư Ngỏ của Đức Đệ Tứ Tăng Thống, Hòa thượng Thích Huyền Quang, viết từ Tu Viện Nguyên Thiều, Bình Định, ngày 21 tháng 2 năm 2005:

“Cuối năm ngoái tôi bị bệnh nặng, Hòa thượng Thích Quảng Độ và chư Tăng ở Saigon muốn ra thăm bệnh tôi ở nhà thương, nhưng đã bị công an chận xe không cho đi. Nay, Tết là ngày vui sum hiệp của mọi gia đình và của toàn dân, là ngày thăm viếng chúc Xuân sau một năm vất vả làm ăn, hay xa cách vì sinh kế phải tha phương kiếm sống. Nhưng năm nay, tôi rất buồn phiền khi nghe tin Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, Hòa thượng Thích Đức Chơn, thành viên Hội đồng Trưởng lão Viện Tăng Thống, Thượng tọa Thích Viên Định, Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo, cùng chư Tăng ở Saigon dự tính ra Tu viện Nguyên Thiều ở Bình Định thăm viếng tôi mấy ngày đầu Xuân, nhưng một lần nữa, lại bị ngăn cấm. Các cơ quan công quyền tại các quận Bình Thạnh, Gò Vấp, Phú Nhuận, Thủ Đức v.v... đã đến các chùa liên hệ yêu cầu chư Tăng không được ra Bình Định chúc Xuân, với lý do mơ hồ là “tình hình còn khó khăn, không ổn định” không nên đi, hoặc nói lời vô lý là: “Có kẻ xấu lợi dụng, tổ chức chuyến đi ra Bình Định thăm Hòa thượng Thích Huyền Quang để gây rối. Có ai tổ chức đi thì đừng có đi, vì Nhà nước không cho đi!”. Nhiều ngày qua còn cắt đường dây điện thoại của Hòa thượng Thích Quảng Độ.

Nước ta từ bao đời, thăm xuân, chúc Tết, mừng thọ là những nghĩa cử văn hóa truyền thống tốt đẹp cần lưu giữ. Vậy tôi yêu cầu Đảng và Nhà nước điều tra xem do ai, hay do nguyên cớ nào, mà ngăn cấm Hòa thượng Quảng Độ và hàng giáo phẩm ra Bình Định thăm viếng tôi mấy ngày đầu năm. Nếu có lý do chính đáng để ngăn cấm, xin công bố cho Phật giáo đồ trong và ngoài nước cũng như công luận thế giới được biết để mọi người hết thắc mắc, hết nghĩ rằng Đảng và Nhà nước vẫn tiếp tục đàn áp Giáo Hội, tiếp tục cấm đoán các quyền tự do đi lại, thăm viếng, là những quyền được Hiến pháp và các Công Ước Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc bảo đảm. Bằng không, xin hãy thông báo ngay cho Hòa thượng Thích Quảng Độ ở Thanh Minh Thiền Viện, Saigon, rằng Hòa thượngchư Tăng Giáo Phẩm có toàn quyền thăm viếng và đi lại tự do, để chúng tôi biết rằng khẩu hiệu “Sống Và Làm Việc Theo Pháp Luật” của Nhà Nước đề ra không là khẩu hiệu suông mà không được áp dụng trong đời sống cho mọi công dân.”

Bản chất của người dân Việt là lòng hiếu hòa, nhân, nghĩa, thuần hậu, hiền lương trong sự tương quan giữa bà con làng nước. Tấm lòng hiền hòa, đôn hậu ấy đã nâng cao giá trị đạo đức cao quý của dân tộc, để đời sống tâm linh được thăng tiến, hướng thượng. Chư vị Tiền Bối hữu công, các anh hùng liệt nữ đã một đời đã hy sinh để bảo vệ đất nước giang sơn, mong đem lại đời sống thực sự thanh bình, thịnh trị, ấm no, hạnh phúc cho người dân. Chư vị Thiền gia, Tổ Đức sống đời thanh đạm, ăn trái cây rừng, uống nước suối trong mà tĩnh tu đạo nghiệp đã hòa quyện vào đời sống nhân sinh, sự hưng thịnh của sơn hà xã tắc. Dầu tĩnh tu trong núi rừng tĩnh mịch, nhưng vẫn không quên lưu tâm đến đời sống nhân quần xã hội, quốc gia làng nước. Tấm lòng ưu tư ấy được thể hiện thành lời qua Thông Điệp Phật Đản 2548 của Đức Đệ Tứ Tăng Thống:

 “.... Như lời Trúc Lâm Đại Sa Môn khuyên bảo vua Trần Nhân Tông: “Trong núi không có Phật, Phật ở tại tâm... phàm là đấng quân vương, hãy lấy ước muốn của thiên hạ làm ước muốn của mình, lấy tâm của thiên hạ làm tâm của mình... Xin Bệ hạ chớ quên điều ấy.” Bằng lời khuyên khẩn thiết của vị Sư già sống lẻ loi giữa núi rừng u tịch, một triều đại mới được xác lập, tiếp tục viết thêm những trang sử vẻ vang cho dân tộc. Xin chư vị lãnh đạo nước nhà hôm nay, hãy can đảm nhìn thẳng vào sự thật của hiện tình đất nước, nêu cao tinh thần trách nhiệm của mình trước nhân dânlịch sử, hãy đặt quyền lợi dân tộc và sự phát triển quốc gia lên trên hết; chư vị hãy lắng nghe ý kiến, tôn trọng và chia sẻ tâm tư nguyện vọng của hơn 80 triệu dân, để có thể chung sức xây dựng đất nước, sớm đưa toàn dân thoát khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu, chặn đứng sự băng hoại về tinh thầnđạo đức trong xã hộicông luận và các vị thức giả đã nhiều lần cảnh báo.”

 (Tu Viện Nguyên Thiều, ngày 10 tháng 4 năm 2005. Đức Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN (ấn ký) Tỳ Kheo Thích Huyền Quang.)

Bằng những ưu tư về sự tồn vinh của Đạo pháp của quê hương, và sức sống của dân tộc trong hương vị của chánh pháp mà chư vị Lịch Đại Tổ Sư, đã chống tích trượng dấn thân vào đời để thể hiện đại nguyện độ sinh qua hai phạm trù tu chứng quả thánh và hoàn thiện đời sống nhân sinh. Bằng trí tuệ siêu việt, vượt thoát sự tương quan đối đãi, phàm tình của nhân thế; bằng tấm lòng từ bi cao cả vô phân biệt giữa người với người, thân thù đều bình đẳng, đích thực giá trị thực hữu đó.

Đạo Phật đã xây dựng nền văn hóa giác ngộ cho quê hương Việt Nam kể từ thuở đầu đời và chính nền văn hóa đó đã thăng tiến trên dòng lịch sử hơn 4000 năm văn hiến của giống nòi. Đạo Từ Phật Đản 2549 của Hòa thượng Viện Trưởng Viện Hóa Đạo:

 

“Với tinh thần giải phóng tự kỷ và tịnh hóa nhân gian mà đạo Phật du nhập vào Việt Nam, đưa dân tộc bước lên đường văn hiến như một khẳng định của trí tuệ, từ bitự chủThời cuộcthịnh suy, nhưng đạo Phật chưa thăng trầm trong đại nguyện cứu khổ, mà cứu khổ là đưa người đến bến bờ tự do, giải thoát. Người Phật tử thi hành Đạo Phật cũng là đóng góp xây dựng quê hương. Đây là hai mặt của một thể thống nhất giữa dân tộc và Phật Giáo, mà lịch sử đã chứng minh hơn 2000 năm qua.

Bởi thế không thể tách lìa vận mệnh dân tộc với vận mệnh chánh pháp. Nhà Nho Mâu Bác sang Giao Châu lánh nạn, cuối thế kỷ thứ II sau Tây lịch, đã quy y theo Phật, nhận định rằng: “Bản chất của Đạo Phật là ở nhà có thể đem mà thờ cha mẹ; giúp nước có thể đem mà giáo hóa dân, sống một mình có thể đem mà trị thân.” Lục Độ Tập Kinh phát hành ở nước ta vào thế kỷ thứ III sau Tây Lịch cũng có câu: Bồ Tát thấy dân kêu ca, do vậy gạt lệ xông vào nơi chính trị hà khắc để cứu dân khỏi nạn lầm than.

Cho nên lòng từ bi của Bồ Tát đã phát động, thì ý chí không dời đổi, dũng tâm cứu độ, ngay cả thân mệnh cũng không tiếc.”

(Thanh Minh Thiền Viện – Saigon, Mùa Phật Đản 2549, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN (ấn ký) Sa Môn Thích Quảng Độ)

Đó là nền văn hóa và sức sống thâm trầm, hùng liệt của Chư vị Tổ đức Tiền nhân. Là niềm tự hào về ý thức dân tộc hướng thân trên con đường kiến tạo cho một quê hương qua hai tâm thức: thăng tiến giác ngộan bình thịnh trị xã hội nhân sinh.

“...Ta biết nền văn hóa Hùng Vương đã đạt được một số thành tựu rực rỡTrước tiên, nền văn hóa này đã xây dựng được một bộ máy công quyền dựa trên luật pháp, để bảo vệ biên cươngđiều hành đất nước. Dấu vết cụ thể là bộ Việt Luật... Việt Luật là một điểm chỉ chắc chắn về sự tồn tại của một chính quyền Hùng Vương độc lập năm 110 trước Tây lịch cho đến 43 sau Tây lịch. Chỉ một tồn tại liên tục lâu dài cỡ đó mới cho phép ra đời một bộ luật hoàn chỉnh và có tác động rộng rãi trong xã hội.”

(Lịch sử Phật Giáo Việt Nam, tập I, Lê Mạnh Thát 1999. Tr. 36-37)

Luật pháp là để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ quyền lợi đời sống cho người dân không bị hiếp đáp, ức chế, bảo vệ lẽ phải, cùng những công bình xã hội, để từ đó gia đình có nề nếp, xã hộitrật tự thái hòa mà thăng hoa cuộc sống cho có ý nghĩa. Dân tộc Việt Nam đang sống trong thế kỷ 21 cùng nhân loại trên thế giới, cùng những quốc gia văn minh tiến bộ, với những luật pháp hiện hành bảo vệ nhân quyền, bảo vệ sự tự do của loài người trên mặt đất. Những người lãnh đạo quốc gia có bổn phận và trách nhiệm về những thoái hóa, suy đồi, hưng thịnh của đất nước để kiến tạo giềng mối nước nhà, ngày thêm vững chắc ngõ hầu theo kịp những tiến bộ tốt đẹp của hoàn cầu. 

“... Về quan niệm “Trị Dân Giữ Nước” thì từ đời Hùng Vương xa xưa ta đã thấy xuất hiện một lý thuyết nhân bản hoàn toàn khác với quan điểm nhân nghĩa của Trung Hoa và được tìm thấy trong Lục Độ Tập KinhTư tưởng nhân nghĩa này đề cập đến lòng thương, nhưng lòng thương này: “Không chỉ giới hạn trong việc thương người, mà còn bao trùm hết cả sinh vật cho chí đến cỏ cây.” (Hoài vô ngại chi bằng nhân, nhuận đãi thảo mộc). Đây là một tư tưởng hết sức rộng lớn, không có trong Nho giáo. Đối với Nho giáo, nhân nghĩa có một nội dung hết sức hạn chế. Thiên Tận Tâm Chương Cú Thượng, Mạnh Tử nói rất rõ: “Lòng nhân của Nghiêu Thuấn không yêu khắp hết mọi người mà trước hết yêu bà con và người tài giỏi.” Cho nên dù Mạnh Tử có thể dễ dàng đồng ý với tư tưởng trong Lục Độ Tập Kinh là: “(Vua) lấy nhân từ trị nước, dung thứ dạy dân” (Vương) trị dĩ nhân hòa dân dĩ thứ cư bỉ) (quyển 4, mục 22a 19; hay “lấy điều nhân để trị nước” (Trị Quốc Dĩ Nhân); vì Mạnh Tử cũng chủ trương: “Tam đại được thiên hạ là nhờ nhân, mất thiên hạ cũng vì bất nhân.” Sđd trang 54-55. Lê Mạnh Thát.

Sau 30 năm cầm quyền, nhà nước CS Việt Nam đã biến quê hương thành nghèo nàn về mọi mặt áo cơm, lẫn tinh thần, đạo đức, dân trí... do hậu quả của nền giáo dục thiếu hoàn chỉnh, chân chính đã gây ra những tệ nạn thảm khốc cho xã hội, làm mất cả lương tri thuần hậu của tình nghĩa Thầy trò.

Hệ thống giáo dục khu biệt khô cằn đó đã đầu độc kiến văn của con người, như cái máy vô lương tri chỉ biết nghiền nát những ai đang đối đầu trước nó. Nền giáo dục toàn diện bị uốn cong, bẻ gẫy bởi chủ thuyết xã hội chủ nghĩa và đảng trị. Trong khi mọi ưu tiên đều dành cho thành phần con cháu đảng viên có “lý lịch tốt” theo tiêu chuẩn của nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa. Vì thế, nước nhà đã mất đi những cơ hội tận dụng khả năng cũng như phát huy năng khiếu của mỗi người. Do đó, đất nước khó có cơ may phát triển và tìm gặp những nhân tài ưu tú ra giúp nước. Riêng đối với giáo dục tôn giáo, Đại đức Thích Nhựt Chấn viết thành văn bản để nói lên thảm trạng của nền giáo dục Phật Giáo tại Việt Nam như sau:

 

“1.1- Hệ Thống Sơ Cấp Phật Học:

Đây là hệ thống căn bản nhất để hình thành dòng tư duy vững chắc để tiếp nhận những tri thức trừu tượng hơn. Nhưng hiện tại, trong toàn quốc không có một hệ thống cụ thể nào cả. Chương trình giáo dục lớp sơ cấp trong toàn quốc, có cũng được, không cũng không sao. Ở một vài nơi có chúng sa di, sa di ni đông thì được tổ chức vào ba tháng hạ, ở những Tổ đình lớn và chỉ mang tính gia giáo nhiều hơn là giáo dục sư phạm. Ngay cả tỉnh Bình Định có truyền thống Phật Giáo vững mạnh, nhưng cũng không có một trường Sơ Cấp Phật Học nào cả. Còn trình độ Phật học của giáo thọ thì rất yếu kém, ngày đi dạy tối về tập vẽ ngoằn ngoèo vài chữ Hán là chuyện thường thôi; trong khi đó có những Thầy đủ năng lực thì không được mời dạy vì “lý tưởng không trong sạch”. Chỉ cần nhìn vào điểm này cũng thấy giáo dục Phật Giáo đã mất gốc rồi, vì hệ thống Sơ Cấp Phật học mà không được chú trọng đúng mức thì những kiến thức cơ bản sẽ không có là điều tất nhiên.

1.2 - Hệ Thống Trung Cấp Phật Học:

Ở cấp Trung học thì mỗi trường có một giáo trình riêng, có một cách dạy riêng. Như trường Trung cấp ở Đà Nẵng thì Kinh Thập Thiện đến năm thứ tư mới dạy và mỗi tuần chỉ có 3 buổi học mà còn phải nghỉ thường xuyêngiáo thọ bận đi cúng hoặc bận Kỵ Tổ. Trường Trung cấp Phật Học ở Bình Định hiện tại thì mỗi học kỳ đều có một môn học mà nội dung và người giảng cũng do Ban Tôn Giáo Chính phủ chỉ định. Các trường khác ở Huế, Sài Gòn, Tòng Lâm (Bà Rịa, Vũng Tàu), ở Nha Trang, ở Cần Thơ cũng chịu sự tha hóa tương tự như thế.

1.3 - Hệ Thống Học Viện Phật Giáo:

Vì ở các lớp dưới đã mất tính thường nhất cho nên khi vào Học Viện Phật GiáoTăng Ni cả nước tập trung về ba nơi Sài Gòn, Huế, Hà Nội cũng được tổ chức tuyển sinh 4 năm một lần nên trình độ hiểu biết và tuổi tác rất chênh lệch. Đầu vào ba trường rất khó khăn, nhưng đầu ra thì rất dễ dãiChương trình đào tạo lại đưa vào trường những môn học không cần thiết. Ví dụ ở Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh phải học các môn như: Triết học Mác, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học, lịch sử đảng. Chúng con thấy một trường Phật Học tại sao lại phải học các môn học như thế để làm gì, trong khi Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo một người xuất gia đọc cả đời cũng chưa hết.”

 

 Sau ba thập niên cưỡng chiếm miền Nam, các chương trình giáo dục học đường cũng như tôn giáo đã bị thay đổi hoàn toàn theo chính sách tuyên truyền, xuyên tạc... của nhà cầm quyền Hà Nội. Với chủ trương “Hồng hơn Chuyên”, nhà nước đã đưa vào học đường tôn giáo những chương trình học thiếu tính cách chuyên môn, tạo nên những suy thoái trong phương cách đào tạo Tăng tài cho đất nước Việt Nam. Một số người thực sự có trách nhiệm lại không có khả năng, kiến thức và không có cả lương tri chức vụ khiến cho hệ thống giáo dục Tăng tài càng thêm khiếm khuyết, thui chột...

“2.1 - Hệ Thống Giáo Dục Cư Sỹ:

Đã nhiều năm, quần chúng Phật tử chịu tác động tuyên truyền từ nhiều thế lực bằng quan niệm đạo Phật là đạo của ông già bà cả, đạo của thế giới sau khi chết, mặc dầu họ có đức tin mãnh liệt vào Phật Giáođức tin ấy luôn chảy mãi trong trái tim họ.

Một hình thức tu tập truyền thống cho giới cư sỹ Phật tử là khóa tu Bát Quan Trai giới, nhưng nội dung chỉ mang hình thức lễ bái nhiều hơn là tập sống một ngày một đêm theo hạnh xuất gia. Còn trong việc sinh hoạt đi chùa tụng kinh, niệm Phật, bái sám, cũng chỉ là hình thức, chứ Phật Giáo chưa có sự giáo dục cụ thể để đưa giáo lý căn bản, chuẩn xác vào sự hiểu biết cho đại đa số quần chúng Phật tử. Có nhiều Thầy còn bóp méo giáo lý, dạy sai lời Phật có chủ ý rõ ràng. Có Thầy đã dạy Phật tử rằng: “Việc gì Phật dạy đúng mà đảng không cho làm thì không được làm, còn việc gì dù sai mà đảng cho phép thì cứ làm.”

Có ai không đau xót trước tâm tình bộc bạch của Đại đức Thích Nhựt Chấn. Tâm nguyện của người xuất gia với lý tưởng phục vụ Đạo pháp, thánh thiện tự thân những mong “mảnh đất tâm có cơ hội hồi sinh, để muôn loài có cơ may sinh sôi nảy nở.” Có lẽ nào các thế hệ trẻ lại phải thừa nhận một nền giáo dục hoang tàn đổ nát? Chắc hẳn ai ai cũng thấy được trách nhiệm giáo dục Tăng tài phát xuất từ đâu? Điều mà ai cũng tha thiết được tiêu tan, được hóa giải những nỗi oan khiên, ngang trái để cho con người được tự do, được tự chủ, độc lập để không bị lệ thuộc ức chế nô lệ bởi sự hà khắc của chế độ.

“Tăng sỹ trẻ như chúng con hiện nay đang được giáo dục trong môi trường nhiều bất cập làm con chú ý nhất là ngành giáo dục Phật Giáo nước nhà, hiện nay chỉ có “giáo” nhưng thiếu “dục”. Nuôi dưỡng xác phàm này đã khó mà nuôi dưỡng tâm hồn thánh thiện để mai hậu tâm hồn ấy trở thành một vị Phật lại càng khó hơn. Vì vậy, người nuôi nó phải là người đã từng tự nuôi mình trong quá khứ mới có đầy đủ kinh nghiệm để trao truyền và nuôi dưỡng. Tất cả những kinh nghiệm đó được trao truyền qua thân giáo của quý Ngài.

 

“Cổ nhân thường nói “thượng bất nghiêm hạ tất loạn” để ám chỉ những người đi sau bị hư là do những người đi trước không gương mẫu, nhưng theo chúng con điều này đúng thì có đúng mà chưa đủ. Bởi lẽ, chúng con đang sống trong môi trường khô khan cằn cỗi như sa mạc cháy bỏng, những cơn mưa dù lớn hay nhỏ chỉ như là muối bỏ bể, không thể nào tìm được vị trí của mình trong đó. Mà cần phải có những cơn “đại pháp vũ”, đem nước và phù sa về nuôi dưỡng cho những mảnh đất tâm có cơ hội hồi sinh, để muôn loài có cơ may sinh sôi nảy nởChúng con không muốn nhận lầm những cơn mưa pháp nhỏ bé là “đại pháp vũ” rồi vội vàng gieo trồng hạt giống, vội nứt mộng nảy lộc thì tất cả sẽ bị ngất ngư và chết ngay sau khi nó đâm chồi ra lá.”

“Chúng con thiết nghĩ, nhân lực Phật Giáo hiện tại không phải là không có. Quý Ngài, quý Thầy không phải không đủ đức độ, không phải không có tài năng tổ chức giảng dạy, không phải không có tâm huyết hy sinh; nhưng tại sao Phật Giáo Việt Nam lại như thế này?

Phải chăng vấn đề then chốt ở chỗ quý Ngài không có tự do trong việc xây dựng một hệ thống giáo dục Phật Giáo vững mạnh, luôn bị các thế lực chính trị thao túng, áp chế sâu vào bộ máy tổ chức nội bộ, giáo dục Phật Giáo đã không cho quý Ngài làm được? Phải chăng Giáo Hội Phật Giáo nhà nước là thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc nên không có toàn quyền là điểm then chốt của sự rời rạc trong việc tổ chức nhân sự giáo dục học đường và tính chất bất cập trong hệ thống giáo trình? Phải chăng đấy là vấn đề gốc rễ, là nguyên nhân của mọi khủng hoảng, tha hóa được che bằng hình thức “vết sưng phát triển” của Phật Giáo Việt Nam hiện tại?”

Đó chính là niềm ray rứt khôn nguôi của những người còn chút tâm huyết với tiền đồ Đạo pháp, là nỗi đau giữa lòng quê hương mà dân tộc Việt Nam phải gánh chịu suốt bao năm qua. Để rồi, Phật Giáo Việt Nam cũng lênh đênh theo vận nước nổi trôi với biết bao anh hùng con dân nước Việt cùng các bậc Tổ Đức Thiền Gia đã bị vùi dập oan khiên:

“Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam ngót 2000 năm lịch sử truyền thừa, cùng chung cảnh thịnh suy vui buồn với dân tộc và hành động cũng vì lý tưởng an lạc hạnh phúc đích thực của dân tộc. Thế nhưng, ba mươi năm qua, trong khi khắp các châu lục trên thế giới, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cũng được nở rộ thăng hoa thì ngay ở trên quê hương Việt Nam, Giáo Hội chúng ta lại bị khủng bố đàn áp khốc liệt, tưởng chừng như không gượng dậy được. Nhưng Giáo Hội không những đã không mai một cùng năm tháng, mà trái lại càng được khẳng định một cách kiên cố trong lòng người và tồn tại vĩnh hằng trong mạch nguồn tâm linh của người con Phật chân chính hiểu đạo.” (Thông Điệp Tết Ất Dậu của Đức Đệ Tứ Tăng Thống)

Nội dung bức Thông Điệp nói lên phần nào thực trạng của quê hương mà Phật Giáo Việt Nam, một tổ chức có hơn 2000 năm tuổi thọ, cũng chịu chung những áp bức nghiệt ngã cùng dân tộc. Điển hình tinh thần bất khuất của dòng máu Tăng Già Việt Nam: 12 Tăng Ni tự thiêu tập thể tại chùa Dược Sư, Cần Thơ năm 1975; cái chết mờ ám của Hòa thượng Thiện Giải ở Lâm Đồng; cái chết của Hòa thượng Thiện Minh trong nhà tù cộng sản năm 1978; cái chết của Hòa thượng Trí Thủ tại bệnh viện Thống Nhất năm 1984; cái chết của Hòa thượng Thanh Trí tại bệnh viện Nguyễn Trãi cùng năm 1984... và còn nhiều cái chết để hy hiến đời mình cho quê hương được thanh bình, dân tộc được ấm no.

Cả dân tộc bị lưu đày ngay trên quê hương, đất nước. Bao nhà tù mọc lên giam cầm con dân nước Việt, những người vì dân vì nước. 30 năm qua, bao người đã vùi thân nơi lòng đất lạnh, bỏ thây nơi chốn rừng thiêng nước độc, nơi những địa danh xa lạ, hay chìm sâu vào lòng biển cả, khiến cho đất nước phải bị thất tán quá nhiều tiềm lực, chất xám cùng với sự tiến bộ văn minh của dân tộc.

 Đất nước bị thoái hóa đạo đức, mất đi nếp sống cao đẹp cùng nền văn hóa cổ truyềnTổ tiên đã dày công gìn giữ hơn 4000 năm qua, tạo nên những tệ trạng thương đau, khốn khó trên quê hương. Làm trì trệ mạch nguồn tâm linh trong sáng:

“...Còn hôm nay, có lẽ động lực thôi thúc Ngài sớm trở về với Tổ Quốc là vì sau 30 năm không còn bom đạn, nhưng những đổ vỡ, bế tắc vẫn còn đó trên quê hương. Đổ vỡ về tinh thần đạo đức dân tộc, đổ vỡ về nếp sống văn hóa, đổ vỡ về một niềm tin trong một số tầng lớp để cho sự nghi kỵthành kiến sai lầm dẫn đến bế tắc gần như đang quờ quạng. Chúng con đã thấy được và rất thương tâm cho cảnh đời đang chết ngắc, đang héo hon vì không tiếp xúc được mạch nguồn của Tổ tiên, truyền thống. Nhiều sinh thể, nhiều con tim đang héo hắt, suy sụp vì dòng máu đã lạc mất lối về.”

 (Lời tác bạch của Chư Tăng Tổ đình Linh Mụ đối với Thiền Sư Nhất Hạnh vào lúc 9:10 phút, ngày 27-02-05)

 

Đấy là tâm tư, là nhận định của cộng đồng Tăng Lữ Thừa Thiên – Huế về quê hương dân tộc Việt Nam. Do đâu lớp người hôm nay bị héo hắt, bị đổ vỡ niềm tin, bị đánh mất mạch nguồn với Tổ tiên Cha Mẹ? Do đâu dòng máu, con tim đã lạc lối về?

Phải chăng những băn khoăn, ray rứt đó là nỗi đau giữa lòng quê hương của những người con dân nước Việt?

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14875)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17804)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18219)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14996)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13192)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21168)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32591)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15321)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12350)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12836)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27535)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12138)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34968)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17752)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11828)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12651)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14571)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32473)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19462)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12972)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14087)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14272)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15318)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14145)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14136)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11959)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53181)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11665)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13927)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13822)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20696)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14313)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13434)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13619)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34179)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16211)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14073)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14203)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13567)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15920)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13517)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22980)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27748)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13906)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24978)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13954)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31335)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13867)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15563)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14980)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant