Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Tài Liệu Tham Khảo & Phụ Lục

20 Tháng Hai 201300:00(Xem: 9305)
4. Tài Liệu Tham Khảo & Phụ Lục

Niên Biểu Phật Giáo Việt Nam

Trần Tri Khách


4. Tài Liệu Tham Khảo & Phụ Lục


1- Phạm Văn Sơn (1960), Việt Sử Toàn Thư (viết tắt VSTT), California: Ðại Nam in lại, không ghi năm tái bản.
2- Nguyễn Quốc Thắng & Nguyễn Bá Thế, Từ Ðiển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam (viết tắt TÐNVLS), thành phố HCM: nhà xuất bản Văn Hóa in lần thứ tư, 1997
3- Lê Mạnh Thát , Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (viết tắt LSPGVN), tập 1, Huế: nhà xuất bản Thuận Hóa, 1999. Tập 2 , thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 2000.
4- Lê Mạnh Thát, Nghiên Cứu Về Thiền Uyển Tập Anh (viết tắt TUTA), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 1999.
5- Lê Mạnh Thát, Toàn Tập Minh Châu Hương Hải (viết tắt MCHH), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 2000.
6- Lê Mạnh Thát, Toàn Tập Trần Nhân Tông (viết tắt TTTNT), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 2000.
7- Nguyễn Lang (Nhất Hạnh), Việt Nam Phật Giáo Sử Luận (viết tắt VNPGSL). Tập 1 (1973), Paris: Lá Bối in lần thứ hai năm 1977. Tập 2, Paris: Lá Bối, 1978. Tập 3, Paris: Lá Bối, 1985.
8- Trần Hồng Liên, Phật Giáo Nam Bộ từ thế kỷ 17 đến 1975 (viết tắt PGNB), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 1996.
9- Thích Ðức Nhuận , Ðạo Phật và Dòng Sử Việt (viết tắt ÐPVDSV)
10- Kiêm Ðạt, Ðại Giới Ðàn Thiện Hòa, California: Phật Học Viện Quốc Tế, 1983.
11- Thích Mật Thể (1943), Việt Nam Phật Giáo Sử Lược , California: Phật Học Viện Quốc Tế in lại 1984.
12- Ðông Tiến, Việt Nam 20 Năm 1975- 1995, San Jose: Cơ Sở Ðông Tiến, 1996.
13- Phúc Trung , Lược Sử Gia Ðình Phật Tử, trang nhà Người Cư Sĩ : http://membres.lycos.fr
14- Cung Ðình Thanh, Nguyễn Văn Tuấn và Nguyễn Ðức Hiệp, Một Vài Ghi Chép Thêm Về Văn Minh Cổ Và Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam, trang nhà www.giaodiem.com, tháng 8. 2002.


PHỤ LỤC 1:

CÁC DANH TƯỚNG CỦA HAI BÀ TRƯNG ÐƯỢC THỜ TẠI CÁC ÐỀN MIẾU NƯỚC TA CHO TỚI NGÀY NAY

(Tham khảo: Ðông Tiến, Nước Tôi Dân Tôi, San Jose: Cơ Sở Ðông Tiến, 1989 - Nguyễn Quyết Thắng & Nguyễn Bá Thế, Tự Ðiển Nhân Vật Lịch Sử VN, Thành phố HCM: nhà xuất bản TP/HCM in lần thứ 4, 1997 )
- Ðền thờ ở làng Ðồng Nhân, Hà Nội: thờ tượng Hai Bà và tượng 12 vị nữ tướng.
- Ðền Hai Bà Trưng ở huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên (kinh đô Mê Linh cũ).
- Ðền thờ Hai Bà Trưng ở làng Hát Môn, tỉnh Phú Thọ, các đồ thờ đều sơn màu đen tuyền. Trước đền là bàn thờ bà hàng bán bánh trôi đã đi theo phò giúp Trưng Vương.
- Các huyện gần sông Hát Giang (sông Ðáy) như Phú Thọ, Thạch Thất, Quốc Oai tỉnh Sơn Tây có đền miếu thờ các vị anh hùng liệt nữ thời Trưng Vương như: Thượng Cát, Bạch Hoa Công Chúa, Ðào Khang, Hoàng Ðạo, Ðỗ Năng Tế, Giám Sát Ðại Vương, Ả Tú, Ả Huyền, Nhất Trung Á, Mai Thi Trang, Chàng Năm, Nàng Năm, Thủy Hải Công Chúa ...

- Các huyện gần sông Ðáy (Hát Giang) tỉnh Hà Nam như Thanh Liêm, Kim Bảng có đền miếu thờ các anh hùng thời Trưng Vương như: Cao Bà Văn Tổ, Hảo Nương, Lưu Nương, Quách Thị, Khoan Nhân Ðại Vương,Vạn Phúc Phu Nhân, Lê Hằng Nghị, bà Tái Kênh, Linh Bảo Nương, Ngọc Dung Công Chúa, Ngọc Nhân, Nguyễn Phúc, Nguyễn Dung, Nguyễn Phúc Tính, Nguyệt Nga, Ông Ðốc, Quỳnh Anh Phu Nhân ...

- Ðền làng Trung Am, tỉnh Hải Dương thờ một vị tướng của Trưng Vương tử trận ở Lạng Sơn.
- Ðền thờ ông Tam Giang, một tướng giỏi của Hai Bà tại làng Bần Yên Nhân, tỉnh Hưng Yên.
- Ðền thờ bà Lê Chân ở Ngõ Nghè, Hải Phòng (nên còn gọi là Ðền Nghè).
- Ðền làng Tiên La, tỉnh Thái Bình, thờ bà Bát Nàn ( còn gọi là Bát Nàn Công Chúa, Bát Nàn Phù Tướng).
- Ðền làng Hiền Quan, tỉnh Phú Thọ thờ bà Hoàng Thiếu Hoa ( còn gọi là bà Thiều Hoa, Ðông Cung Tướng Quân).
- Ở tỉnh Phú Thọ cũng thờ danh tướng Ðô Dương. Ông có công lớn nhất trong việc giải phóng 65 thành trì năm 39. Năm 43, ông là người chỉ huy chiến tuyến sau cùng chống lại đại quân của Mã Viện ở Thanh Hóa sau khi Trưng Vương trầm mình xuống sông Hát.
- Ở Sơn Tây thờ Thị Nội Tướng Quân Phùng Thị Chính và chồng bà là Ðinh Lượng. Bà Phùng Thị Chính võ nghệ cao cường, đánh giặc hăng say, sanh con ngay trên mình ngựa, quân địch khâm phục tôn là Mã Thị Nam Chinh. Khi Trưng Vương trầm mình xuống sông Hát, bà cũng tử tiết. Chồng bà là Ðinh Lượng, một hào kiệt giỏi võ nghệ theo phò Trưng Vương cũng bỏ mạng trong trận chiến cuối cùng với Mã Viện
Tại năm tỉnh miền Nam Trung Quốc (Quảng Ðông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu và Tứ Xuyên) có hơn 100 đền miếu thờ các danh tướng của Hai Bà Trưng, theo kết quả quan sát thực địacủa bác sĩ Trần Ðại Sĩ. Bản báo cáo này của ông được phổ biến trên trang nhà Internet www.thuvienvietnam.org mục tạp chí Thư Viện Việt Nam số 3. Vùng đất này, trong nhiều thế kỷ qua, chiến tranh xảy ra liên miên, gương hào hùng hẳn nhiên phải có mà đền miếu thì không sao tránh khỏi bị tàn phá,sụp đổ. Nếu các anh hùng liệt nữ thời Trưng Vương không tạo được chiến công hiển hách, oai hùng, sẽ chẳng ai nghĩ tới chuyện tu bổ lại đền miếu để thờ phượng tới ngày nay.
Thời Trưng Vương là thời thịnh trị của nhà Hán, sau khi Hán Quang Vũ thống nhất được Trung Quốc. Mã Viện (17 BC- 44) là một tướng giỏi, nhiều kinh nghiệm chiến trường của nhà Hán, vậy mà ông phải chuẩn bị lực lượng từ mùa xuân năm 42 tại các Quận phía Nam Trung Quốc và phải một năm sau mới hoàn thành cuộc tấn công. Một điểm cần nói thêm: Mã Viện thọ 62 tuổi, cho nên không có chuyện ông cầm quân đánh bại Trưng Vương vào năm 70 tuổi như ghi trong một số sử sách nước ta.


PHỤ LỤC 2:

BƯỚC ÐẦU ÐẠO PHẬT DU NHẬP VÀO NƯỚC TA

quan niệm lầm lẫn cho rằng nước ta bắt đầu có văn hiến là nhờ hai thái thú Tích Quang (năm 2) và Nhâm Diên (năm 24), lại thấy kinh điển Phật Giáonghi thức tụng niệm ở nước ta mang gốc gác chữ Hán, một số đáng kể các nhà biên khảo Phật giáo kết luận vội vã là đạo Phật du nhập vào nước ta từ Trung Quốc, bắt đầu vào thời Sĩ Nhiếp (cuối thế kỷ 1).

Thực ra mãi tới năm 67, khi vua Hán Minh Ðế (58- 76) nằm mộng thấy người vàng, cận thần Trương Nghị giải thích người vàng thân thểhào quang bay trên không đó là người đắc đạo ở nước Thiên Trúc gọi là Phật; vua mới cử một phái đoàn qua nước Ðại Nhục Chi thỉnh được kinh Tứ Thập Nhị Chương và mời được hai vị tăng Ma Ðằng Ca DiếpTrúc Pháp Lan. Trong mấy thế kỷ đầu, hoạt động của Phật Giáo Trung Quốc chủ yếu là dịch kinh, xây chùa. Mãi tới năm 258 sư Châu Tử Hàng khai đàn, giảng kinh Bát Nhã ở kinh đô Lạc Dương, việc giảng pháp cho đại chúng Trung Quốc mới bắt đầu.

Ở nước ta, người Phật tử đầu tiên là Chử Ðồng Tử, đời Hùng Vương thứ 18 (chấm dứt vào năm 258 BC) được nhà sư Phật Quang (còn gọi là sư Bần, người gốc Ấn Ðộ) truyền pháp, trao cho cây gậy và chiếc nón. Tích này được ghi lại trong Lĩnh Nam Chích Quái. Chử Ðồng Tử được thờ ở đền Trung, trong cụm đền thờ vua Hùng tại núi Nghĩa Lĩnh, tỉnh Phú Thọ và ở phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Chử Ðồng Tử là thương gia buôn bán đường sông, quen biết nhiều. Sau khi truyền pháp cho vợ là công chúa Tiên Dung, hai người bỏ hẳn việc buôn bán mà lo mở rộng việc truyền pháp.

Mặt khác, cũng có những bằng cớ về việc phái đoàn truyền giáo dưới sự hướng dẫn của Sona và Uttara do vua A Dục phái đi đã tới nước ta. Nhân dân ta đã dựng tháp tại thành Nê Lê ở núi Mẹ tại Ðồ Sơn để tạ ơn vua A Dục (269 BC- 232 BC) đã truyền Phật pháp tới Luy Lâu. Cho tới những năm 380- 420, những người lượm củi ở vùng núi Mẹ (Mẫu Sơn) còn thấy tháp này. Thiền sư Mật Thể trong Việt Nam Phật Giáo Sử Lược (tr.69) cho biết từ năm 245 BC Trung Quốc và Ấn Ðộ đã giao thương với nhau qua cửa ngõ nước ta. HT Ðức Nhuận trong Ðạo Phật Và Dòng Sử Việt: vào thế kỷ 3 BC, phong trào di dân rộng lớn tại Ấn từ Kalinga sang phía Ðông rồi xuống Nam vì "cơn sốt " mua bán vàng có thể đưa một số tăng sĩ Ấn Ðộ theo thuyền buôn tới nước ta. Có thể sự thông thương giữa Ấn Ðộ và nước ta đã xảy ra trước đó khá lâu. Năm 135 BC, Hoài Nam Vương Lưu An dâng thư can ngăn vua Hán đừng đem quân đánh Nam Việt, có viết: Từ thời Tam Ðại, đất Hồ đất Việt không theo lịch pháp Trung Quốc. Thời Tam Ðại gồm nhà Hạ (2140 BC- 1711 BC), nhà Thương hay nhà AÂn (1711 BC- 1066 BC) và nhà Chu (1066 BC- 256 BC). Theo Lê Mạnh Thát (LSPGVN 1) và Nhất Hạnh (VNPGSL 1), thời đó nước Văn Lang theo lịch pháp Ấn Ðộ (năm có 4 mùa, 12 tháng, tháng có 30 ngày).

Sự kiện dân ta gọi Thích Ca là BỤT, phổ thông trong ca dao còn truyền tụng tới ngày nay, là bằng chứng vững chắc khác cho thấy Phật Giáo du nhập vào Việt Nam trước tiên qua ngả Ấn Ðộ. Phật là một từ do pháp sư Trung Quốc Huyền Tráng tạo ra khi dịch kinh Phật vào thế kỷ 7. Lê Mạnh Thát ( Lịch Sử Phật Giáo VN tập 1) còn đi xa hơn, đưa ra giả thuyết Lục Ðộ Tập Kinh trước tiên được dịch từ chữ Phạn qua chữ Việt cổ, Khương Tăng Hội đã tham chiếu bản dịch chữ Việt này để dịch qua chữ Hán.

Bằng chứng nữa: khi vua Tùy Văn Ðế (589- 601) phục hưng đạo Phật Trung Quốc rồi, muốn truyền bá Phật pháp tới Giao Châu, sư Ðàm Thiên tâu : Giao Châu có đường thẳng thông với Thiên Trúc.Khi đạo Phật mới tới Giang Ðông chưa đầy đủ thì ở Luy Lâu của Giao Châu đã có hơn 20 ngôi bảo sát (chùa), độ được hơn 500 vị tăng, dịch 15 cuốn kinh. Năm 255, Khương Tăng Hội (sau khi thọ đại giới tại nước ta) vào đất Ðông Ngô, lập am tranh thờ tượng Phật, bị quan chức Trung Quốc cho là kỳ lạ báo cho vua Ðông Ngô là Tôn Quyền. Nếu đạo Phật đã có mặt tại đây vào thời điểm này, có lẽ Khương Tăng Hội không bị những thử thách có thể mất mạng mới được phép hoằng dương Phật pháp.

Phật Giáo tại nước ta đã có chùa Liên Trì đã được xây từ thời Hùng Vương ( trước 258 BC). Năm 544, vua Lý Nam Ðế dựng chùa Khai Quốc trên nền cũ của chùa Liên Trì. Chùa Trúc Viên ở núi Sài Sơn (tỉnh Sơn Tây) đã có mặt từ thời tể tướng Lữ Gia của nhà TRiệu (năm 110 BC). Ngôi chùa đầu tiên tại Trung Quốc là chùa Bạch Mã ở kinh đô Lạc Dương xây cất khoảng năm 68 để làm chỗ Ma Ðằng Ca DiếpTrúc Pháp Lan chứa kinh và dịch kinh do ngựa trắng chở từ nước Ðại Nhục Chi về.

Năm 39, hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng đứng lên đánh đuổi tên thái thú nhà Hán tàn bạo Tô Ðịnh, sư cô Thiều Hoa rời khỏi chùa, mộ được 500, trở thành tướng tiên phong của Trưng Vương. Trưng Vương dẹp xong 65 thành trì, thâu hồi độc lập cho đất nước, sư cô Thiều Hoa lại trở về chùa làng Hiền Quan tiếp tục tu. Bà sinh năm 3, xuất gia năm 16 tuổi sau khi cha mẹ đều mất. Bà tịch năm 40. Năm 43, sau trận đánh cuối cùng ở Cẩm Khê, Hai Bà trầm mình xuống sông Hát, cuộc khởi nghĩa của TRưng Vương chấm dứt, một số tướng lãnh của Hai Bà nương mình nơi cửa Phật. Trong đó có Bát Nàn Phu Nhân. Tướng nhà Hán là Mã Viện tiến hành một cuộc thanh trừng quy mô, thậm chí bắt lưu đày dân cả một vùng Ðông Việt vào đất Giang Hoài và tìm bắt các người có khả năng lãnh đạo mà y gọi là "chủ soái" lưu đày ra Linh Lăng. Phật Giáo nước ta thời đó hẳn có tổ chức chặt chẽ mới che chở được những tăng ni mới và tồn tại được sau chiến dịch đồng hóa quy mô và gắt gao của Mã Viện, một kẻ chưa hề nghe nói tới Phật.

Như vậy Ni giới nước ta đã có mặt từ trước năm 39. Hẳn nhiên khi sư cô Thiều Hoa (còn gọi là Hoàng Thiếu Hoa) rời chùa đi cứu nước mà chỉ trong thời gian ngắn mộ được 500 quân thì phải hiểu là đạo hạnh của bà đã có sức thuyết phục đại chúng từ trước đó. Tại Trung Quốc, mãi tới năm 429 mới có một ni đoàn từ Tích Lan tới Kiến Nghiệp học chữ Hán để hướng dẫn ni chúng người Hoa.

Tăng đoàn nước ta cho tới cuối thế kỷ 2 đã được phát triển khá mạnh. Các đại sư và kinh sách của trung tâm Luy Lâu ít nhất đã đào tạo được hai nhân vật kiệt xuấtMâu TửKhương Tăng Hội.
Mâu Tử (khoảng 160- khoảng 230) người Thương Ngô, ham đọc đủ loại sách, thường đem Ngũ Kinh của Nho giáo ra vặn hỏi các Nho gia. Năm 180, thiên hạ loạn lạc, Mâu Tử đưa mẹ tới Giao Chỉ lánh nạn. Có lẽ ông bắt đầu để ý tới Phật pháp tại Luy Lâu từ năm 183. Năm 26 tuổi về Thương Ngô cưới vợ, lộ trình dài tới 5 ngàn dặm. Ít lâu sau mẹ mất, nghĩ thời thế nhiễu nhương, bèn dốc chí nghiên cứu đạo Phật tại Luy Lâu. Ông viết Lý Hoặc Luận năm 198 để trả lời những người quen biết chỉ trích ông phản bội Nho mà theo Phật. Theo Lê Mạnh Thát (Tổng tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam 1, tr. 26) Lý Hoặc Luận từng là sách gối đầu giường của giới học Phật ở Trung QuốcNhật Bản. Ðây là sáng tác lý luận Phật Giáo đầu tiên bằng Hán văn, trình bày khả năng của Phật Giáo có thể thay thế Nho Giáo trong mọi lãnh vực xử thế.

Khương Tăng Hội (khoảng 200- 280) sinh ra, lớn lên, xuất gia và được thọ giới theo nghi thức "Tam Sư, Thất Chứng" tại Giao Châu. Mối liên hệ thầy trò trong tăng đoàn thắm thiết tới mức nhiều năm sau khi ba thầy tịch, Khương Tăng Hội vẫn còn thương tiếc. Tại Trung Quốc, tới năm 258 sư Ðàm Ma Ca La từ Trung Ấn tới Lạc Dương tổ chức truyền giới theo nghi thức "Tam Sư Thất Chứng", nghi thức này mới được bắt đầu tại Trung Quốc. Năm 247 Khương Tăng Hội chống gậy, vân du qua Ðông Ngô (Trung Quốc) hoằng pháp. Pháp sư An Thế Cao, dịch giả kinh An Ban Thủ Ý, ca ngợi ông là người giảng kinh Thiền xuất sắc. Năm 258, vua Ðông Ngô Tôn Lâm phá chùa, giết sư, bị Tôn Hạo giết rồi nối ngôi. Khương Tăng Hội góp công lớn phục hồi Phật Giáo Ðông Ngô. Tại Ðông Ngô, ông dịch 14 quyển kinh ra Hán văn, trong đó có Lục Ðộ Tập Kinh. Sư ông Nhất Hạnh suy tôn Khương Tăng Hội là tổ Thiền Tông Việt Nam, mặc dù phần đóng góp chính yếu của ông là cho Phật Giáo Trung Quốc.

Khương Tăng Hội không phải là thí dụ duy nhất cho thấy từ khởi nguyên, Phật Giáo VN đã là chỗ dựa của Phật Giáo Trung Quốc. Ðầu thế kỷ 4, nhiều tăng sĩ Trung Quốc tìm đến chùa Tiêu Sơn ( Bắc Ninh) cầu học về Tịnh Ðộ, sau đó trở về Trung Quốc hoằng dương pháp môn này. Sư Ðàm Thiên (542- 607) sau khi thâu đạt về Duy Thức Học và Nhiếp Ðại Thừa Luận tại Luy Lâu đã giúp vua Tùy Văn Ðế phục hồi Phật Giáo Trung Quốc.

Tóm lại, từ khởi nguyên Phật Giáo du nhập vào nước ta từ Ấn Ðộ. Phật Giáo Ấn Ðộ đã truyền tới nước ta trước khi tới Trung Quốc. Trong những thế kỷ đầu, Phật Giáo VN đã là chỗ dựa cho Phật Giáo Trung Quốc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14318)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14577)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11853)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14375)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13284)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14653)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12649)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25281)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27917)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26389)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17248)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16537)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15933)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22165)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17146)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24950)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 22006)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19089)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16180)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21733)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16800)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14679)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16724)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25042)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18794)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21203)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14783)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14380)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16628)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18021)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12938)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14954)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12731)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13899)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14620)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28058)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27232)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14360)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20999)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14676)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24214)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28723)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14746)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13307)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16470)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27272)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12024)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16081)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21522)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12385)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant