Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Tài Liệu Tham Khảo & Phụ Lục

20 Tháng Hai 201300:00(Xem: 9283)
4. Tài Liệu Tham Khảo & Phụ Lục

Niên Biểu Phật Giáo Việt Nam

Trần Tri Khách


4. Tài Liệu Tham Khảo & Phụ Lục


1- Phạm Văn Sơn (1960), Việt Sử Toàn Thư (viết tắt VSTT), California: Ðại Nam in lại, không ghi năm tái bản.
2- Nguyễn Quốc Thắng & Nguyễn Bá Thế, Từ Ðiển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam (viết tắt TÐNVLS), thành phố HCM: nhà xuất bản Văn Hóa in lần thứ tư, 1997
3- Lê Mạnh Thát , Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (viết tắt LSPGVN), tập 1, Huế: nhà xuất bản Thuận Hóa, 1999. Tập 2 , thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 2000.
4- Lê Mạnh Thát, Nghiên Cứu Về Thiền Uyển Tập Anh (viết tắt TUTA), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 1999.
5- Lê Mạnh Thát, Toàn Tập Minh Châu Hương Hải (viết tắt MCHH), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 2000.
6- Lê Mạnh Thát, Toàn Tập Trần Nhân Tông (viết tắt TTTNT), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 2000.
7- Nguyễn Lang (Nhất Hạnh), Việt Nam Phật Giáo Sử Luận (viết tắt VNPGSL). Tập 1 (1973), Paris: Lá Bối in lần thứ hai năm 1977. Tập 2, Paris: Lá Bối, 1978. Tập 3, Paris: Lá Bối, 1985.
8- Trần Hồng Liên, Phật Giáo Nam Bộ từ thế kỷ 17 đến 1975 (viết tắt PGNB), thành phố HCM: nhà xuất bản thành phố HCM, 1996.
9- Thích Ðức Nhuận , Ðạo Phật và Dòng Sử Việt (viết tắt ÐPVDSV)
10- Kiêm Ðạt, Ðại Giới Ðàn Thiện Hòa, California: Phật Học Viện Quốc Tế, 1983.
11- Thích Mật Thể (1943), Việt Nam Phật Giáo Sử Lược , California: Phật Học Viện Quốc Tế in lại 1984.
12- Ðông Tiến, Việt Nam 20 Năm 1975- 1995, San Jose: Cơ Sở Ðông Tiến, 1996.
13- Phúc Trung , Lược Sử Gia Ðình Phật Tử, trang nhà Người Cư Sĩ : http://membres.lycos.fr
14- Cung Ðình Thanh, Nguyễn Văn Tuấn và Nguyễn Ðức Hiệp, Một Vài Ghi Chép Thêm Về Văn Minh Cổ Và Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam, trang nhà www.giaodiem.com, tháng 8. 2002.


PHỤ LỤC 1:

CÁC DANH TƯỚNG CỦA HAI BÀ TRƯNG ÐƯỢC THỜ TẠI CÁC ÐỀN MIẾU NƯỚC TA CHO TỚI NGÀY NAY

(Tham khảo: Ðông Tiến, Nước Tôi Dân Tôi, San Jose: Cơ Sở Ðông Tiến, 1989 - Nguyễn Quyết Thắng & Nguyễn Bá Thế, Tự Ðiển Nhân Vật Lịch Sử VN, Thành phố HCM: nhà xuất bản TP/HCM in lần thứ 4, 1997 )
- Ðền thờ ở làng Ðồng Nhân, Hà Nội: thờ tượng Hai Bà và tượng 12 vị nữ tướng.
- Ðền Hai Bà Trưng ở huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên (kinh đô Mê Linh cũ).
- Ðền thờ Hai Bà Trưng ở làng Hát Môn, tỉnh Phú Thọ, các đồ thờ đều sơn màu đen tuyền. Trước đền là bàn thờ bà hàng bán bánh trôi đã đi theo phò giúp Trưng Vương.
- Các huyện gần sông Hát Giang (sông Ðáy) như Phú Thọ, Thạch Thất, Quốc Oai tỉnh Sơn Tây có đền miếu thờ các vị anh hùng liệt nữ thời Trưng Vương như: Thượng Cát, Bạch Hoa Công Chúa, Ðào Khang, Hoàng Ðạo, Ðỗ Năng Tế, Giám Sát Ðại Vương, Ả Tú, Ả Huyền, Nhất Trung Á, Mai Thi Trang, Chàng Năm, Nàng Năm, Thủy Hải Công Chúa ...

- Các huyện gần sông Ðáy (Hát Giang) tỉnh Hà Nam như Thanh Liêm, Kim Bảng có đền miếu thờ các anh hùng thời Trưng Vương như: Cao Bà Văn Tổ, Hảo Nương, Lưu Nương, Quách Thị, Khoan Nhân Ðại Vương,Vạn Phúc Phu Nhân, Lê Hằng Nghị, bà Tái Kênh, Linh Bảo Nương, Ngọc Dung Công Chúa, Ngọc Nhân, Nguyễn Phúc, Nguyễn Dung, Nguyễn Phúc Tính, Nguyệt Nga, Ông Ðốc, Quỳnh Anh Phu Nhân ...

- Ðền làng Trung Am, tỉnh Hải Dương thờ một vị tướng của Trưng Vương tử trận ở Lạng Sơn.
- Ðền thờ ông Tam Giang, một tướng giỏi của Hai Bà tại làng Bần Yên Nhân, tỉnh Hưng Yên.
- Ðền thờ bà Lê Chân ở Ngõ Nghè, Hải Phòng (nên còn gọi là Ðền Nghè).
- Ðền làng Tiên La, tỉnh Thái Bình, thờ bà Bát Nàn ( còn gọi là Bát Nàn Công Chúa, Bát Nàn Phù Tướng).
- Ðền làng Hiền Quan, tỉnh Phú Thọ thờ bà Hoàng Thiếu Hoa ( còn gọi là bà Thiều Hoa, Ðông Cung Tướng Quân).
- Ở tỉnh Phú Thọ cũng thờ danh tướng Ðô Dương. Ông có công lớn nhất trong việc giải phóng 65 thành trì năm 39. Năm 43, ông là người chỉ huy chiến tuyến sau cùng chống lại đại quân của Mã Viện ở Thanh Hóa sau khi Trưng Vương trầm mình xuống sông Hát.
- Ở Sơn Tây thờ Thị Nội Tướng Quân Phùng Thị Chính và chồng bà là Ðinh Lượng. Bà Phùng Thị Chính võ nghệ cao cường, đánh giặc hăng say, sanh con ngay trên mình ngựa, quân địch khâm phục tôn là Mã Thị Nam Chinh. Khi Trưng Vương trầm mình xuống sông Hát, bà cũng tử tiết. Chồng bà là Ðinh Lượng, một hào kiệt giỏi võ nghệ theo phò Trưng Vương cũng bỏ mạng trong trận chiến cuối cùng với Mã Viện
Tại năm tỉnh miền Nam Trung Quốc (Quảng Ðông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu và Tứ Xuyên) có hơn 100 đền miếu thờ các danh tướng của Hai Bà Trưng, theo kết quả quan sát thực địacủa bác sĩ Trần Ðại Sĩ. Bản báo cáo này của ông được phổ biến trên trang nhà Internet www.thuvienvietnam.org mục tạp chí Thư Viện Việt Nam số 3. Vùng đất này, trong nhiều thế kỷ qua, chiến tranh xảy ra liên miên, gương hào hùng hẳn nhiên phải có mà đền miếu thì không sao tránh khỏi bị tàn phá,sụp đổ. Nếu các anh hùng liệt nữ thời Trưng Vương không tạo được chiến công hiển hách, oai hùng, sẽ chẳng ai nghĩ tới chuyện tu bổ lại đền miếu để thờ phượng tới ngày nay.
Thời Trưng Vương là thời thịnh trị của nhà Hán, sau khi Hán Quang Vũ thống nhất được Trung Quốc. Mã Viện (17 BC- 44) là một tướng giỏi, nhiều kinh nghiệm chiến trường của nhà Hán, vậy mà ông phải chuẩn bị lực lượng từ mùa xuân năm 42 tại các Quận phía Nam Trung Quốc và phải một năm sau mới hoàn thành cuộc tấn công. Một điểm cần nói thêm: Mã Viện thọ 62 tuổi, cho nên không có chuyện ông cầm quân đánh bại Trưng Vương vào năm 70 tuổi như ghi trong một số sử sách nước ta.


PHỤ LỤC 2:

BƯỚC ÐẦU ÐẠO PHẬT DU NHẬP VÀO NƯỚC TA

quan niệm lầm lẫn cho rằng nước ta bắt đầu có văn hiến là nhờ hai thái thú Tích Quang (năm 2) và Nhâm Diên (năm 24), lại thấy kinh điển Phật Giáonghi thức tụng niệm ở nước ta mang gốc gác chữ Hán, một số đáng kể các nhà biên khảo Phật giáo kết luận vội vã là đạo Phật du nhập vào nước ta từ Trung Quốc, bắt đầu vào thời Sĩ Nhiếp (cuối thế kỷ 1).

Thực ra mãi tới năm 67, khi vua Hán Minh Ðế (58- 76) nằm mộng thấy người vàng, cận thần Trương Nghị giải thích người vàng thân thểhào quang bay trên không đó là người đắc đạo ở nước Thiên Trúc gọi là Phật; vua mới cử một phái đoàn qua nước Ðại Nhục Chi thỉnh được kinh Tứ Thập Nhị Chương và mời được hai vị tăng Ma Ðằng Ca DiếpTrúc Pháp Lan. Trong mấy thế kỷ đầu, hoạt động của Phật Giáo Trung Quốc chủ yếu là dịch kinh, xây chùa. Mãi tới năm 258 sư Châu Tử Hàng khai đàn, giảng kinh Bát Nhã ở kinh đô Lạc Dương, việc giảng pháp cho đại chúng Trung Quốc mới bắt đầu.

Ở nước ta, người Phật tử đầu tiên là Chử Ðồng Tử, đời Hùng Vương thứ 18 (chấm dứt vào năm 258 BC) được nhà sư Phật Quang (còn gọi là sư Bần, người gốc Ấn Ðộ) truyền pháp, trao cho cây gậy và chiếc nón. Tích này được ghi lại trong Lĩnh Nam Chích Quái. Chử Ðồng Tử được thờ ở đền Trung, trong cụm đền thờ vua Hùng tại núi Nghĩa Lĩnh, tỉnh Phú Thọ và ở phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Chử Ðồng Tử là thương gia buôn bán đường sông, quen biết nhiều. Sau khi truyền pháp cho vợ là công chúa Tiên Dung, hai người bỏ hẳn việc buôn bán mà lo mở rộng việc truyền pháp.

Mặt khác, cũng có những bằng cớ về việc phái đoàn truyền giáo dưới sự hướng dẫn của Sona và Uttara do vua A Dục phái đi đã tới nước ta. Nhân dân ta đã dựng tháp tại thành Nê Lê ở núi Mẹ tại Ðồ Sơn để tạ ơn vua A Dục (269 BC- 232 BC) đã truyền Phật pháp tới Luy Lâu. Cho tới những năm 380- 420, những người lượm củi ở vùng núi Mẹ (Mẫu Sơn) còn thấy tháp này. Thiền sư Mật Thể trong Việt Nam Phật Giáo Sử Lược (tr.69) cho biết từ năm 245 BC Trung Quốc và Ấn Ðộ đã giao thương với nhau qua cửa ngõ nước ta. HT Ðức Nhuận trong Ðạo Phật Và Dòng Sử Việt: vào thế kỷ 3 BC, phong trào di dân rộng lớn tại Ấn từ Kalinga sang phía Ðông rồi xuống Nam vì "cơn sốt " mua bán vàng có thể đưa một số tăng sĩ Ấn Ðộ theo thuyền buôn tới nước ta. Có thể sự thông thương giữa Ấn Ðộ và nước ta đã xảy ra trước đó khá lâu. Năm 135 BC, Hoài Nam Vương Lưu An dâng thư can ngăn vua Hán đừng đem quân đánh Nam Việt, có viết: Từ thời Tam Ðại, đất Hồ đất Việt không theo lịch pháp Trung Quốc. Thời Tam Ðại gồm nhà Hạ (2140 BC- 1711 BC), nhà Thương hay nhà AÂn (1711 BC- 1066 BC) và nhà Chu (1066 BC- 256 BC). Theo Lê Mạnh Thát (LSPGVN 1) và Nhất Hạnh (VNPGSL 1), thời đó nước Văn Lang theo lịch pháp Ấn Ðộ (năm có 4 mùa, 12 tháng, tháng có 30 ngày).

Sự kiện dân ta gọi Thích Ca là BỤT, phổ thông trong ca dao còn truyền tụng tới ngày nay, là bằng chứng vững chắc khác cho thấy Phật Giáo du nhập vào Việt Nam trước tiên qua ngả Ấn Ðộ. Phật là một từ do pháp sư Trung Quốc Huyền Tráng tạo ra khi dịch kinh Phật vào thế kỷ 7. Lê Mạnh Thát ( Lịch Sử Phật Giáo VN tập 1) còn đi xa hơn, đưa ra giả thuyết Lục Ðộ Tập Kinh trước tiên được dịch từ chữ Phạn qua chữ Việt cổ, Khương Tăng Hội đã tham chiếu bản dịch chữ Việt này để dịch qua chữ Hán.

Bằng chứng nữa: khi vua Tùy Văn Ðế (589- 601) phục hưng đạo Phật Trung Quốc rồi, muốn truyền bá Phật pháp tới Giao Châu, sư Ðàm Thiên tâu : Giao Châu có đường thẳng thông với Thiên Trúc.Khi đạo Phật mới tới Giang Ðông chưa đầy đủ thì ở Luy Lâu của Giao Châu đã có hơn 20 ngôi bảo sát (chùa), độ được hơn 500 vị tăng, dịch 15 cuốn kinh. Năm 255, Khương Tăng Hội (sau khi thọ đại giới tại nước ta) vào đất Ðông Ngô, lập am tranh thờ tượng Phật, bị quan chức Trung Quốc cho là kỳ lạ báo cho vua Ðông Ngô là Tôn Quyền. Nếu đạo Phật đã có mặt tại đây vào thời điểm này, có lẽ Khương Tăng Hội không bị những thử thách có thể mất mạng mới được phép hoằng dương Phật pháp.

Phật Giáo tại nước ta đã có chùa Liên Trì đã được xây từ thời Hùng Vương ( trước 258 BC). Năm 544, vua Lý Nam Ðế dựng chùa Khai Quốc trên nền cũ của chùa Liên Trì. Chùa Trúc Viên ở núi Sài Sơn (tỉnh Sơn Tây) đã có mặt từ thời tể tướng Lữ Gia của nhà TRiệu (năm 110 BC). Ngôi chùa đầu tiên tại Trung Quốc là chùa Bạch Mã ở kinh đô Lạc Dương xây cất khoảng năm 68 để làm chỗ Ma Ðằng Ca DiếpTrúc Pháp Lan chứa kinh và dịch kinh do ngựa trắng chở từ nước Ðại Nhục Chi về.

Năm 39, hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng đứng lên đánh đuổi tên thái thú nhà Hán tàn bạo Tô Ðịnh, sư cô Thiều Hoa rời khỏi chùa, mộ được 500, trở thành tướng tiên phong của Trưng Vương. Trưng Vương dẹp xong 65 thành trì, thâu hồi độc lập cho đất nước, sư cô Thiều Hoa lại trở về chùa làng Hiền Quan tiếp tục tu. Bà sinh năm 3, xuất gia năm 16 tuổi sau khi cha mẹ đều mất. Bà tịch năm 40. Năm 43, sau trận đánh cuối cùng ở Cẩm Khê, Hai Bà trầm mình xuống sông Hát, cuộc khởi nghĩa của TRưng Vương chấm dứt, một số tướng lãnh của Hai Bà nương mình nơi cửa Phật. Trong đó có Bát Nàn Phu Nhân. Tướng nhà Hán là Mã Viện tiến hành một cuộc thanh trừng quy mô, thậm chí bắt lưu đày dân cả một vùng Ðông Việt vào đất Giang Hoài và tìm bắt các người có khả năng lãnh đạo mà y gọi là "chủ soái" lưu đày ra Linh Lăng. Phật Giáo nước ta thời đó hẳn có tổ chức chặt chẽ mới che chở được những tăng ni mới và tồn tại được sau chiến dịch đồng hóa quy mô và gắt gao của Mã Viện, một kẻ chưa hề nghe nói tới Phật.

Như vậy Ni giới nước ta đã có mặt từ trước năm 39. Hẳn nhiên khi sư cô Thiều Hoa (còn gọi là Hoàng Thiếu Hoa) rời chùa đi cứu nước mà chỉ trong thời gian ngắn mộ được 500 quân thì phải hiểu là đạo hạnh của bà đã có sức thuyết phục đại chúng từ trước đó. Tại Trung Quốc, mãi tới năm 429 mới có một ni đoàn từ Tích Lan tới Kiến Nghiệp học chữ Hán để hướng dẫn ni chúng người Hoa.

Tăng đoàn nước ta cho tới cuối thế kỷ 2 đã được phát triển khá mạnh. Các đại sư và kinh sách của trung tâm Luy Lâu ít nhất đã đào tạo được hai nhân vật kiệt xuấtMâu TửKhương Tăng Hội.
Mâu Tử (khoảng 160- khoảng 230) người Thương Ngô, ham đọc đủ loại sách, thường đem Ngũ Kinh của Nho giáo ra vặn hỏi các Nho gia. Năm 180, thiên hạ loạn lạc, Mâu Tử đưa mẹ tới Giao Chỉ lánh nạn. Có lẽ ông bắt đầu để ý tới Phật pháp tại Luy Lâu từ năm 183. Năm 26 tuổi về Thương Ngô cưới vợ, lộ trình dài tới 5 ngàn dặm. Ít lâu sau mẹ mất, nghĩ thời thế nhiễu nhương, bèn dốc chí nghiên cứu đạo Phật tại Luy Lâu. Ông viết Lý Hoặc Luận năm 198 để trả lời những người quen biết chỉ trích ông phản bội Nho mà theo Phật. Theo Lê Mạnh Thát (Tổng tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam 1, tr. 26) Lý Hoặc Luận từng là sách gối đầu giường của giới học Phật ở Trung QuốcNhật Bản. Ðây là sáng tác lý luận Phật Giáo đầu tiên bằng Hán văn, trình bày khả năng của Phật Giáo có thể thay thế Nho Giáo trong mọi lãnh vực xử thế.

Khương Tăng Hội (khoảng 200- 280) sinh ra, lớn lên, xuất gia và được thọ giới theo nghi thức "Tam Sư, Thất Chứng" tại Giao Châu. Mối liên hệ thầy trò trong tăng đoàn thắm thiết tới mức nhiều năm sau khi ba thầy tịch, Khương Tăng Hội vẫn còn thương tiếc. Tại Trung Quốc, tới năm 258 sư Ðàm Ma Ca La từ Trung Ấn tới Lạc Dương tổ chức truyền giới theo nghi thức "Tam Sư Thất Chứng", nghi thức này mới được bắt đầu tại Trung Quốc. Năm 247 Khương Tăng Hội chống gậy, vân du qua Ðông Ngô (Trung Quốc) hoằng pháp. Pháp sư An Thế Cao, dịch giả kinh An Ban Thủ Ý, ca ngợi ông là người giảng kinh Thiền xuất sắc. Năm 258, vua Ðông Ngô Tôn Lâm phá chùa, giết sư, bị Tôn Hạo giết rồi nối ngôi. Khương Tăng Hội góp công lớn phục hồi Phật Giáo Ðông Ngô. Tại Ðông Ngô, ông dịch 14 quyển kinh ra Hán văn, trong đó có Lục Ðộ Tập Kinh. Sư ông Nhất Hạnh suy tôn Khương Tăng Hội là tổ Thiền Tông Việt Nam, mặc dù phần đóng góp chính yếu của ông là cho Phật Giáo Trung Quốc.

Khương Tăng Hội không phải là thí dụ duy nhất cho thấy từ khởi nguyên, Phật Giáo VN đã là chỗ dựa của Phật Giáo Trung Quốc. Ðầu thế kỷ 4, nhiều tăng sĩ Trung Quốc tìm đến chùa Tiêu Sơn ( Bắc Ninh) cầu học về Tịnh Ðộ, sau đó trở về Trung Quốc hoằng dương pháp môn này. Sư Ðàm Thiên (542- 607) sau khi thâu đạt về Duy Thức Học và Nhiếp Ðại Thừa Luận tại Luy Lâu đã giúp vua Tùy Văn Ðế phục hồi Phật Giáo Trung Quốc.

Tóm lại, từ khởi nguyên Phật Giáo du nhập vào nước ta từ Ấn Ðộ. Phật Giáo Ấn Ðộ đã truyền tới nước ta trước khi tới Trung Quốc. Trong những thế kỷ đầu, Phật Giáo VN đã là chỗ dựa cho Phật Giáo Trung Quốc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34422)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16891)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 23006)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13076)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 22003)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22252)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14893)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23637)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24179)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23717)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17180)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19396)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27124)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14442)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13869)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22731)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14795)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17393)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12706)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13896)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10440)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14735)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17227)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12580)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12751)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10391)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28741)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10732)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11159)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16908)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15802)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13361)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12585)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11402)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13054)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19341)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12291)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28682)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10083)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21614)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12820)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17862)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26322)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11738)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10879)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22806)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12079)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10630)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11430)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11551)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant