Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tản mạn về Cần Thơ

29 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 6405)
Tản mạn về Cần Thơ

CẢM NIỆM VỀ MẸ

(Kính dâng mẹ cụ bà Nguyễn thị Sáu)
Hư Thân Huỳnh Trung Chánh


cam_niem_ve_me

Tản mạn về Cần Thơ


Sanh trưởng tại vùng đồng bằng sông ngòi chằn chịt, chưa bập bẹ “i tờ” đã lặn ngụp tắm sông, mối tình sông nước đã man man đeo đẳng tôi ra tận xứ người. Lái xe qua cây cầu nào, tôi cũng rộn ràng ngắm nhìn thật kỹ giòng sông, để rồi chỉ ngậm ngùi khám phá rằng sông nước ở đây nó chẳng dính líu gì đến niềm thương nỗi nhớ của mình. Tôi lại định cư tại vùng sa mạc khô cằn thuộc tiểu bang Arizona, nơi cũng có nhiều cây cầu khang trang và dài như cầu Tân An hay Bến Lức, bờ sông cẩn đá, lòng sông nông cạn nhưng khá rộng được khéo léo trải từng lớp sỏi to cỡ trái xoài tượng, gọn gàng, sạch sẽ, và dĩ nhiên chẳng hề có chút sình non hay rác rến. Chuyện nghịch đời là con sông đó suốt năm khô khan chỉ mấy ngày mới có lạch nước nhỏ ri rỉ chảy, sông rạch thiếu nước, dù tô điểm cách nào nó cũng vô duyên trơ trẻn mà thôi. Muốn tìm ra một giòng sông đúng nghĩa tôi phải đi sang tiểu bang khác. Tôi có dịp viếng vài giòng sông nổi tiếng như American River, Sacramento River tại Bắc Cali, Mississipi River tại các tiểu bang miền Trung, nhưng chưa có nơi nào so sánh nổi với giòng Cửu Long mông mênh tình tứ cả. Nhân một chuyến nghỉ hè tại phố biển Corpus Christi, Texas, vô tình chúng tôi khám phá bến phà Aransas Pass đưa sang đảo Padre, bèn đi cho biết. Chiếc phà hùng vĩ nuốt chửng gần hai mươi chiếc xe, chạy phất phới, nên tuy khoảng đường biển dài gấp đôi Bắc Vàm Cống, thời gian di chuyển chỉ độ chừng 30 phút mà thôi. Tôi đậu xe, ra đứng tại đầu phà, ngắm trời mây bao la, đón làn gió mát, nhìn chiếc phà rẽ sóng tung toé... bất chợt tôi có cảm giác như mình đang bồng bềnh trên giòng Cửu Long ngày nào : thương nhớ vô vàng. Anh Huy, bạn tôi bỗng cất giọng thảm sầu : “Trời ơi! cảnh nầy sao quen thuộc quá! nó khiến tôi nhớ Bắc Cần Thơ điên cuồng, anh ạ!” Tôi nghe ba chữ “Bắc Cần Thơ” bỗng xúc động lặng người, gắng gượng lắm tôi mới đáp nho nhỏ qua tiếng thở dài : “Ừa thì tôi cũng nhớ Cần Thơ tha thiết, chẳng thua anh bao nhiêu đâu?” Anh bạn chẳng tin tí nào. Tôi đâu phải là dân Cần Thơ, thì làm sao có thể thương Cần Thơ bằng anh cho được.

Thân hữu không mấy người biết, thuở ấu thơ tôi đã có thời sống tại Cần Thơ hai năm, và cũng không ai ngờ rằng đã qua bao năm tháng dài, mà tình cảm của tôi đối với Cần Thơ vẫn thắm thiết đậm đà. Gia đình tôi đã trôi giạt đến Cần Thơ vào năm 1948, tương tợ như một về lục bình trôi lang thang theo giòng nước rồi bị xô đẩy tắp vô một bờ bến lạ vào một đêm tối tăm mù mịt. Chới với, ngỡ ngàng…

Duyên cớ nào đã đưa đẩy chúng tôi lạc lõng đến Cần Thơ vào thời điểm nầy là một chuyện dài, khởi đầu với cảnh đất nước loạn ly tan tóc… Thật vậy, nếu khói lửa chiến chinh vào mùa thu năm 1945 không lan dần đến quê hương tôi, một hòn cù lao nhỏ giữa giòng sông Cổ Chiên, thuộc xã Long Hòa, tỉnh Trà Vinh, thì có lẽ gia đình tôi vẫn an phận với nếp sống trầm lặng tại miền thôn dã. Thế nhưng, chiến cuộc đã cướp mất tôi người cha, và mẹ tôi đành quyết định bỏ nhà cửa ruộng vườn, gạt lệ dẫn con ra đi. Bà đưa con tạm lánh về Mỏ Cày, Kiến Hòa, gởi anh tôi cho chị chồng. Sau đó, cùng với chị bếp trung thành lãnh phần bơi mũi, bà thuê chiếc xuồng và một người bạn chèo - người chèo thuê, nhưng mẹ tôi gọi là bạn chèo, đúng không tôi chẳng rõ - đi ngược giòng sông Tiền, đưa hai đứa con nhỏ về quê ngoại tại Cao Lãnh nương náo. Lộ trình đi thập phần nguy hiểm. Tiếng súng ngày đêm vẫn vang rền, sông Cửu Long mênh mông sóng gió chập chùng, nhưng mẹ tôi vẫn nhất quyết đưa chiếc thuyền con lầm lì len lỏi giữa làn súng đạn của hai phe, như là chuyện thường trực liều lĩnh thách thức với tử thần. Ngày nào, trên giòng sông cũng có vài mươi xác chết sình chương, mà người ta gọi là “thằng chổng” trôi dập dìu. Nạn nhân có thể là kẻ bị Tây nghi ngờ là Việt Minh, nên xử bắn rồi đạp xác xuống sông, hoặc cũng có thể là kẻ bị kháng chiến tình nghithành phần “Việt gian”, trói bỏ vào bao bố kèm với viên đá nặng thả xuống sông cho “mò tôm”. Nguy hiểm hơn nữa, là những nút “kiểm soát” được đặt đầy dẫy khắp nơi, mà ranh giới không rõ rệt, nếu bị chận hỏi mà trả lời lợn cợn thì mất mạng như chơi. Có một lần một dân quân Việt Minh chận xét thấy trong mớ chỉ thêu của mẹ tôi có rất nhiều màu, trong đó có ba màu xanh trắng đỏ, mà ba màu nầy hợp lại thành màu cờ nước Pháp. Thế rồi, anh ta lên án mẹ tôi là Việt gian, tịch thu chỉ thêu và bắt mẹ tôi dẫn đi trình với cấp trên. Anh bạn chèo buột miệng : “Điệu nầy bả dám bị cho đi mò tôm lắm à!”. Em tôi khóc ngất, tôi mới sáu tuổi song cũng phải đóng vai anh dỗ em, nên không thể khóc. Khi mẹ tôi được tha, em tôi mừng quá ôm chầm, càng khóc sướt mướt hơn nữa. Anh bạn chèo, thấy tôi có vẻ vô tâm, sanh lòng bất mãn phán cho một câu : “Thằng anh coi bộ ngu quá! Má nó bị bắt nó không lo, má nó được tha nó chẳng mừng tí nào!”. Cuối cùng rồi thì chúng tôi cũng về tới xã Hòa An, Cao Lãnh, sống an lành trong vòng tay chở che của ngoại. 

Tuy nhiên, nỗi ưu tư lớn lao của mẹ tôi là tương lai của con, bà không chấp nhận cảnh dốt nát thất học ở miền quê, nên ở nhà ngoại chưa giáp năm, mẹ tôi lại dẫn con ra đi, mong tìm chốn thị tứ có trường ốc cho con cái học hành. Thế nhưng, với khả năng hạn hẹp của một thiếu phụ vốn chỉ lúc thúc trong khuê phòng, thì sống chốn nào cũng khó khăn chật vật, nên gia đình chúng tôi cứ phải thay đổi chỗ ở liên miên, và do đó chuyện học hành của lũ con cũng gián đoạn mãi… Một hôm, mẹ tôi nghe một người em họ tên Nghiệp tán tụng Cần Thơ dễ sống, lại có trường Trung Học Phan thanh Giản nổi tiếng. (Vào thời điểm nầy, trọn miền Nam chỉ có Saigon và Cần Thơ là có trung học công lập mà thôi.) Mặc dầu con cái mới bập bẹ “i tờ”, mẹ tôi vốn thầm ao ước sẽ có ngày con mình đặt chân vào ngưỡng cửa trung học, nên chẳng chút đắn đo, bà hăm hở gom góp mớ vốn liếng cỏn con gồm vài món nữ trang còn sót lại, một bàn máy may Singer, khuôn bánh kẹp, khuôn bánh gai… rồi dẫn con đi lập nghiệp. Cậu Nghiệp hướng dẫn mẹ tôi thuê một căn phố lợp lá, nền đất tại một hẻm lầy lội thuộc vùng Cái Khế, cậu ở chơi một tuần, rồi máu lang bạt kỳ hồ nổi dậy, cậu lại ra đi, bỏ mặc chúng tôi ở lại với nỗi bỡ ngỡ, cô đơn, lạc lõng ở xứ người. Trong nghề may, mẹ tôi là “tay ngang” chỉ dám may quần áo cho con cái, nay bà đành bặm gan đi khắp xóm lãnh may thuê với giá rẻ mạt. Bà cũng có mối lai rai, khách hàng toàn là dân nghèo, chuộng giá rẻ hơn phẩm chất nên phần đông dễ dãi, tuy vậy, thỉnh thoảng cũng có người sừng sộ chê áo quần hư hỏng, và mẹ tôi phải năn nỉ xin hoàn lại tiền công để khỏi bị bồi thường. Bà cũng trổ tài làm bánh kẹp, bánh gai, khuấy kẹo để bán. Tôi “xung phong” xin mang thùng kẹo rao bán, kiếm ăn được, ra quân lần đầu gặp một khách tặng cho một cắc, vui quá đổi là vui. Mẹ tôi thì chẳng vui tí nào, bà nhìn con quảy thùng kẹo với nỗi buồn hiu hắt, rồi sau một đêm trằn trọc, bà nhất quyết chẳng cho tôi tiếp tục theo đuổi “sự nghiệp” nầy nữa. Bà điều đình với các quán xép trong xóm, và tại các trường học để bán sỉ cho họ, kiếm lợi được bao nhiêu cũng hài lòng. Nghề làm bánh kẹo coi bộ không khá, kẹo dừa giá rẻ mạt lại dễ bị “lợi đường” lỗ vốn, các loại bánh mắc tiền thì xóm nghèo không mấy ai hưởng ứng, thành thử buôn bán ế ẩm và ngày qua ngày vốn liếng của bà cứ mòn mỏi lần… 

Căn phố nhỏ bé nhưng đối với gia đình tôi thì rộng chán, thừa chỗ cho một cái giường để mẹ con chui rúc với nhau, cái bếp đặt dưới đất phải ngồi xổm nấu nướng, ngồi xổm để ăn. Tôi nhớ dường như cửa sau không thông thương nên dì Tám gánh nước và mấy con gà mẹ tôi nuôi sau nhà… cũng ra vào bằng cửa trước như chúng tôi. Có mấy con gà quanh quẩn cũng vui, nhà đất, tôi suốt ngày đi chân không mà gà thì cũng vậy, có gì khác nhau đâu? Tôi hoàn toàn không nhớ nổi nhu cầu vệ sinh đã giải quyết như thế nào, có lẽ, thời đó chuyện nầy đối với đầu óc trẻ thơ thì nó đơn giản, chớ đâu đòi hỏi phải sạch sẽ, tiện nghi mà phải quan tâm

Xóm giềng mà tôi còn nhớ được là gia đình bác thợ mộc, bà Hai bánh canh, dì Tám gánh nước mướn…, ai cũng tốt bụngdễ thương, nhưng đặc biệt tình nghĩa là gia đình chú Chín Chỉnh, hành nghề đạp xe lôi ở căn nhà đối diện. Chú thím Chín cảm thông hoàn cảnh đơn chiếc của mẹ tôi nên thường giúp đỡ chúng tôi từ chuyện khiêng vác nặng nhọc cho đến chuyện thiếu muỗng nước mắm, tép hành, tép tỏi. Chiều chiều chú thường chở đám con trên xe lôi đi hóng mát, đôi lần chú ngoắc tôi lại cho lên ngồi chung, tạo cho tôi nguồn vui vô tận. Niềm vui đó, sau nầy dẫu tôi ngồi trên chiếc xe hơi láng bóng nào cũng không sánh được. Chú Chín có 4 con: anh Chung, chị Ba, chị Tư, và con bé Sáu chừng 5 tuổi. Anh Chung lớn hơn tôi ba tuổi nhưng mới học lớp hai, còn tôi đang học lớp ba trường Nam tiểu học, nhưng tôi phục anh lắm. Tôi được anh dẫn đi bụi đời, la cà ở các hàng quán, lượm bao thuốc hút, lượm nút chai… về làm “tiền”, đôi khi, tôi len lén ngó trước ngó sau rồi “ực” nhanh một ngụm nước ngọt thừa thãi của một thực khách hào hoa nào đó, tuy có chút hổ thẹn trong lòng, nhưng thật tình thì cũng ngon lành lắm. Thích lêu lỏng mà không có anh, không dám la cà hàng quán, tôi lang thang vào sân quần vợt mê mang nhìn những đứa bé trạc tuổi tôi hành nghề lượm banh. Tôi thèm thuồng cái nghề lượm banh vui nhộn mà lại có tiền quá chừng hà!

Những căn nhà sâu trong hẻm tôi không còn nhớ được ai, ngoại trừ một cô gái mà tôi quên tuốt luốt vóc dáng và quần áo của chị, nhưng bước chân rón rén tránh sình lầy thì lại nhớ rất rõ, vì tôi thường chê đi như vậy chẳng vui, phải lội sình, đá nước tung tóe như tôi mới thú vị. Chị chưng diện như thế nào mà các bà đa sự trong xóm thường háy nguýt phê phán là thứ gái lẳng lơ trắc nết, đôi khi họ còn gọi chị là “con đĩ”, họ cấm con cái chào hỏi chuyện trò. Tôi được “cố vấn tối cao” là anh Chung giải nghĩa nên hiểu rõ ngành nghề nầy, nhưng tôi cũng nghe có người kể rằng chị chu cấp phụng dưỡng mẹ chí hiếu, nên tôi rất quí trọng chị. Niềm kính trọng đó vẫn tồn tại mãi trong tôi, nên sau nầy, trong công việc hàng ngày khi có dịp gần gũi với giới gái mãi dâm, tôi luôn đối xử với họ như người em, người chị. Khi viết những truyện ngắn có những nhân vật hành nghề nầy như truyện “Sen Trắng”, truyện “Người đẹp thoảng hương sen”, tôi viết về họ với tất cả niềm tôn kính trong lòng. 

Ngoại tôi quá lo lắng cho nếp sống bấp bênh của gia đình tôi, nên khi tình hình an ninh tại vùng quê Cao Lãnh vừa vãn hồi, ngoại liền ép buộc mẹ tôi về Hòa An chung sống chăm sóc ông bà lúc tuổi già, phần con cái thì sẽ gởi tạm cho thân nhân tại chợ Mỹ Trà để đi học. Lúc đó là mùa bãi trường, tôi đã chuẩn bị tinh thần để sẵn sàng theo mẹ lên đường, nhưng mẹ tôi vẫn bám víu ước mơ có ngày thằng con sẽ trúng tuyển vào trường trung học Cần Thơ, nên đôn đáo tìm phương cách cho tôi ở lại. Cuối cùngtìm ra được một người bà con nhơn đức, chịu cho tôi ăn ở miễn phí một năm. Mẹ mang gởi tôi cho Ông bà Tư, - Ông Tư là Cao văn Trương, cán sự Ty Địa Chánh, bà Tư là bà con xa, trẻ tuổi hơn mẹ tôi, nhưng là vai dì – rồi dẫn em tôi rời Cần Thơ lúc nào tôi chẳng biết. Chừng sáu tháng sau, mẹ trở lại Cần Thơ thăm tôi, bà chỉ ở chơi một ngày rồi ra đi. Sáng hôm đó, chú Chín Chỉnh đến đón mẹ tôi đưa ra Bắc Cần Thơ, thấy tôi đứng xớ rớ bên cạnh, chú ngoắc tôi cho đi theo. Đến nơi, chú ngừng xe, mẹ tôi liếc nhìn tôi rồi quay mặt ngay để che dấu giọt nước mắt vừa lăn tròn nơi khóe. Tôi thấy kịp nhưng gắng nén lòng, lặng lẽ quan sát bà. Bà luống cuống xuống xe, rồi hấp tấp bước nhanh xuống phà tránh không ngoảnh mặt lại. 

Ở nhà Ông bà Tư tôi không còn thú vui bụi đời nữa, nhưng lại có lắm bạn. Ở trường thì có “trò” Ngôn, ở nhà thì có anh Đức, cháu Ông Tư, quê Bến Tre được Ông Tư đem về nuôi cho ăn học. Rồi đến ngày tựu trường trung học, có các anh Nguyễn lương Tri, Nguyễn lương Năng, Nguyễn nam Thanh được cha mẹ gởi đến xin ở trọ. Anh Lương Năng kể lể nỗi nghèo khó của bạn làTô Cang cho Ông bà Tư nghe, thế là Ông bà lại mở rộng lòng cho anh Cang về ăn ở miễn phí. Nhà đông rần rần, các bậc đàn anh bàn cãi suốt ngày toàn chuyện quốc gia đại sự, nhen nhúm lòng yêu nước trong tôi. Năm đó xảy ra vụ trò Ơn ở Saigon, học sinh Trung Học Cần Thơ biểu tình rồi bãi khóa. Anh Lương Năng và Tô Cang vô bưng, anh Lương Tri về Mỹ Tho với gia đình, anh Nam Thanh bị tống đi du học trời Tây. Căn nhà lại vắng lặng như cũ. 

Niên học trôi qua thật nhanh, lần nầy mẹ con tôi đành dẹp bỏ ước mơ trung học, bà đem tôi về Cao Lãnh sinh sống. Tôi rời Cần Thơ trong niềm tiếc nuối, ước mong có ngày sẽ trở về thăm chốn cũ. Mãi đến chín năm sau, năm 1959, tôi mới có cơ hội nầy. 

Tôi và 5 đồng nghiệp được Nha Điền Thổ biệt phái về Ty Bảo Thủ Điền Thổ Cần Thơ một tuần lễ để yểm trợ chương trình Cải Cách Điền Địa. Trong thời gian nầy, chỉ có một lần tôi tránh né anh em, xé lẻ đi lang thang tìm về xóm cũ nhưng vô vọng. Lúc bấy giờ Ông bà Tư đã rời Cần Thơ, thân thiết tôi chỉ còn gia đình chú Chín. Tôi đón bừa những chiếc xe lôi ngược xuôi hỏi thăm tên chú, cuối cùng có người chở tôi tới nhà chú tại một xóm hoàn toàn mới lạ. Tôi vào nhà thì gặp chị Tư, đang ỳ ạch mang bầu đứa con thứ nhì, hỏi ra thì anh Hai đang nhập ngũ phương xa, chị Ba lập gia đình ở riêng, bé Sáu đi học, chú thím Chín về quê vài ngày,… nên tôi hơi thất vọng

Tôi tốt nghiệp đại học rồi về làm việc tại các tỉnh miền Tây, kề cận Cần Thơ. Nhờ vậy, tôi đã có rất nhiều dịp tìm về Cần Thơ họp bạn, tiệc tùng. Chuẩn bị chuyến đi Cần Thơ lần nào tôi cũng háo hức trông chờ. Cần Thơ thanh lịch mỹ miều, Cần Thơ nhộn nhịp đủ món ăn chơi hào phóng, nên tôi cũng quay cuồng nhập cuộc rộn ràng. Có điều là lần nào cũng vậy, sau khi ra về, tôi lại mang máng buồn, mường tượng như có gì bất ổn, một mất mát nào đó, mà suy nghĩ hoài vẫn không hiểu tại sao?... Một hôm vào khoảng năm 1969, tôi đang đa đoan bận bịu công việc, bất ngờ nhận được thơ của một người bạn học từ năm lớp 9 đang nằm trong vòng lao lý tại Cần Thơ, nhờ tôi giúp đỡ. Anh không thuộc nhóm bạn bè thân, 12 năm qua chưa hề liên lạc nhau, có lẽ vì vậy nên anh đã ngần ngại, lâm nạn khá lâu mới nghĩ đến tôi. Qua câu chuyện anh kể, tôi nhận thấy mình chẳng giúp đỡ gì anh được, nên quyết định không đáp ứng yêu cầu của anh. Tuy vậy chuyện tù tội của anh cứ ám ảnh tôi, khiến tôi ái nái không yên, nên sau cùng thì tôi đổi ý. Tôi nghĩ dẫ̃u không giúp gì nhiều, nhưng chuyến viếng thăm sẽ an ủi được anh phần nào. Thế rồi, tôi lái xe thật sớm sang Cần Thơ, vào Phòng Dự Thẩm Tòa Án thăm hỏi hồ sơ của anh để nghiên cứu. Rất tiếc, hồ sơ đã hoàn tất và gởi lên Phòng Luận Tội chờ đưa ra Tòa Đại Hình, nên không tham khảo được. Tôi bèn tìm anh Biện Lý V.M.H., một người đàn anh thâm tình, vắn tắt kể chuyện người bạn học, và xin anh cho phép tôi đưa nghi phạm đi chơi một vòng chừng vài giờ. Anh H. đồng ý dễ dàng, anh điện thoại xuống Trung Tâm Cải Huấn dặn dò kỹ, nên khi tôi đến nơi trình giấy phép, thì anh bạn đã sẵn sàng, điểm lạ là trong cảnh nầy mà anh vẫn hồng hào, sung túc, và ăn mặc rất chải chuốt. Tôi lái xe chạy lòng vòng, vắn tắt cho anh biết tình trạng hồ sơ và giải thích anh nghe vài điểm pháp lý cần thiết, sau đó, tôi mời anh ăn cơm ở bất cứ chỗ nào mà anh thích. Anh ấp úng hồi lâu rồi cho biết anh đã được tiếp tế đầy đủ nên không khao khát ăn uống, anh chỉ thiếu thốn đàn bà mà thôi. Kết luận, anh mong được đi hoang một chuyến. Tôi trầm ngâm hồi lâu, vì lo ngại tai tiếng, nhưng thật ra, tôi rất cảm thông nhu cầu của anh. Cuối cùng tôi cũng đồng ý, nhưng tôi xác định rằng tôi chỉ mời ăn thôi, còn vụ nầy anh phải tự lo liệu. Anh nhờ tôi đưa đến một khách sạn sang trọng, tôi ngồi chờ ở ngoài xe, chừng một giờ sau thì thấy anh tươi tỉnh trở ra, khoái trá mô tả lại cuộc mua vui, chuyện nham nhở bình thường nhưng thái độ khinh khi gái mãi dâm của anh khiến tôi ngầm bất mãn. Trên đường đến tiệm ăn, anh lại ấp úng lần nữa. Tôi hơi ngạc nhiên và hơi khó chịu – cái khó chịu về thái độ khinh người của anh vẫn còn đọng lại -, nên sau một thoáng ngần ngừ mới đồng ý. Anh viện cớ đã cạn tiền nên xin đưa đến một địa điểm bình dân trong ngõ hẻm Cái Khế, rồi anh đi vào căn nhà lầu khang trang đầu hẻm. Chờ đợi sốt ruột, tôi lang thang đi sâu vào con hẻm. Hẻm hẹp dần, nước mưa ứ đọng vài nơi và nhà cửa cũng xây bừa bãi tồi tệ hơn. Thấy một ngách nhỏ, tôi len vào, nhà cửa ở đây chỉ là thứ lều ọp ẹp kết hợp bằng những miếng tôn tạp nhạp vá víu. Tôi dán mắt quan sát ba thằng bé con cỡi trần, đen đúa, tong teo… đang rạng rỡ ngồi giọc nước sình hôi hám, rồi bỗng nhiên nỗi xúc động vui buồn lẫn lộn xâm nhập tâm tôi, khiến tôi rỡn ốc cả châu thân. Tôi đã khám phá được Cần Thơ của tôi rồi. Thì ra, cái Cần Thơ mà tôi tương tư thương nhớ, không phải là cái thành phố nguy nga tráng lệ nổi tiếng là Tây đô, mà chính là những hình ảnh tiều tụy bùn lầy nước đọng như thế nầy, nơi đã từng chứa chan cả một bầu trời thân thương vào tuổi bé thơ của tôi. 

Tôi hấp tấp đưa trả anh bạn học về Trung Tâm Cải Huấn, rồi lái xe ra đi với niềm cảm xúc vẫn còn miên man trong lòng. Khi tôi dừng xe tại bến Bắc, tôi chợt bàng hoàng thấy một chiếc xe lôi chở một thiếu phụ trẻ và một thằng bé con trờ tới. Tôi nhìn theo hai mẹ con, rồi liên tưởng đến buổi chia tay với mẹ khoảng hai mươi năm về trước cũng tại chỗ nầy. Tôi mong thằng bé được mẹ dẫn theo, chớ không bị bỏ lại như tôi ngày trước : bơ vơ và buồn tủi lắm! Thế rồi, nước mắt tôi bỗng ràn rụa… nước mắt mà 20 năm trước tôi đã đè nén, giờ đây bỗng tuôn tràn một cách bất ngờ và cũng rất là vô lý…

Phoenix, AZ tháng 6.2003

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34436)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16896)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 23015)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13076)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 22019)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22267)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14895)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23647)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24191)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23741)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17182)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19400)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27137)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14448)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13874)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22738)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14799)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17401)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12715)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13906)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10446)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14748)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17230)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12584)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12755)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10396)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28749)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10748)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11163)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16912)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15802)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13368)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12593)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11410)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13061)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19355)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12297)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28696)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10086)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21630)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12823)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17864)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26341)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11743)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10884)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22819)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12086)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10633)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11432)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11551)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant