Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 1: Lịch Sử

05 Tháng Hai 201400:00(Xem: 8325)
Phần 1: Lịch Sử


XỨ TRẦM HƯƠNG

Quách Tấn

 -----oOo-----

 

PHẦN THỨ NHẤT 

LỊCH SỬ

 

Theo những sử liệu hiện hữu thì tỉnh Khánh Hòa ngày nay là phần đất của nước Tây Đồ Di thuở trước, sau khi bị nước Chiêm Thành thôn tính và đổi thành châu Kaut Hara(1)

Tên Cù Huân cổ nhân dùng để gọi Khánh Hòa có lẽ do tiếng Kaut Hara đọc trại. Tại Nha Trang hiện còn một vùng gọi là Hà Ra. Như vậy tiếng Kaut người Chàm ngày xưa chắc đọc na ná như tiếng Cù Huân hoặc Kaut đọc là Cù còn Huân là tiếng người Việt thêm sau cho đẹp lời.

Tây Đồ Di bị Chiêm Thành đánh lấy lúc nào không rõ, vì sách không thấy chép, còn Kaut Hara trở thành đất nước ta thì giữa thế kỷ thứ XVIII, thời Trịnh Nguyễn phân tranh.

Sử chép rằng:

Năm Quý Tỵ (1653) vua Chiêm Thành là Bà Tranh đem quân sang cướp phá đất Phú Yên. Chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần sai Hùng Lộc cử binh vào đánh dẹp. Bà Tranh đại bại, dâng thư xin hàng. Chúa để phần đất từ sông Phiên Lang tức Phan Rang, trở vào cho vua Chiêm, còn từ Phiên Lang trở ra đến Phú Yên thì chiếm cứ, lập ra hai phủ là Diên Ninh và Thái Khang, và 5 huyện là Phước Điền, Hòa Châu, Vĩnh Xương thuộc phủ Diên Ninh, và Tân Định, Quảng Đức thuộc phủ Thái Khang.

Hùng Lộc được bổ làm Thái Thú cai trị hai phủ. Dinh đóng tại Thái Khang.

Năm Canh Ngọ (1690), chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Trăn đổi tên là phủ Thái Khang ra Bình Khang. Và năm Nhâm Tuất (1742) chúa Nguyễn Phúc Khoát đổi tên Diên Ninh thành Diên Khánh.

Từ khi Nguyễn Hoàng vào Nam lập nghiệp chúa cho đến đời Nguyễn Phúc Khoát, trải trên 150 năm, tuy làm chúa một phương, chúa Nguyễn vẫn dùng niên hiệu nhà Lê và theo chế độ phương Bắc. Năm Giáp Tý (1744), chúa Nguyễn Phúc Khoát mới xưng vương hiệu, sửa chế độ, định triều nghi, biệt lập thành một nước tự chủ. Nước tuy độc lập nhưng chưa có Quốc Hiệu. Người ngoại bang thường gọi là Quảng Nam Quốc.

Nước của Nguyễn Vương lúc bấy giờ gồm tất cả đất đai của nước Chiêm Thành cũ cộng với nước Thủy Chân Lạp, chạy từ Hoành Sơn đến Cà Mau và chia làm 12 dinh.

Hai phủ Diên Khánh và Bình Khang cùng 5 huyện liên hệ thuộc dinh Bình Khang.

Còn từ sông Phiên Lang trở về thuộc tỉnh Bình Thuận.

Mỗi dinh có một quan trấn thủ, quan cai bạ và quan ký lục coi việc cai trị.

Lỵ sở Bình Khang vẫn đóng tại đại hạt phủ Bình Khang như thời Thái Thú.

Xứ Kuat Hara từ khi sát nhập vào địa đồ nước ta cho đến khi chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương đổi thành dinh Bình Khang, trải gần 100 năm, không xảy ra một biến cố gì quan trọng. Nhưng sau khi chúa Nguyễn Phúc Khoát mất năm (1765), Định Vương Nguyễn Phúc Thuần kế nghiệp, thì trong nước sanh loạn lạc. Nhân dân phần bị bọn tham quan ô lại bóc lột, phần bị giặc cướp quấy nhiễu, không ăn yên ở yên, nơi nơi đồ thán.

Năm Tân Mão (1711), tam kiệt đất Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ dấy nghĩa binh đánh chúa Nguyễn. Lòng người chán nhà Nguyễn Phúc hăng hái theo về nhà Tây Sơn. Nhờ vậy, không mấy lúc, nhà Tây Sơn đã dựng nên nghiệp lớn. Năm Giáp Ngọ (1774), chúa Nguyễn bỏ thành Phú Xuân chạy vào Gia Định. Những đất đai từ Quảng Nam đến Bình Thuận đều lọt vào tay nhà Tây Sơn.

Nhưng liền đó, tướng nhà Nguyễn là Tống Phúc Hạp từ đất Long Hồ(2) kéo quân ra đánh lấy lại được dinh Bình Thuận và phủ Diên Khánh.

Nguyễn Huệ hay tin cử binh vào đánh Tống Phúc Hạp. Phúc Hạp không đương nổi. Diên Khánh và Bình Thuận trở về nhà Tây Sơn.

Hai năm sau (1776), Nguyễn Huệ đem binh vào lấy thành Gia Định. Định vương Nguyễn Phúc Thuần bị giết. Nhà Tây Sơn làm chúa toàn cõi lãnh thổ của nhà Nguyễn.

Gần 20 năm trời, dinh Bình Khang dưới quyền cai trị nhà Tây Sơn, được yên ổn. Nhân dân an cư lạc nghiệp.

Nhưng sau khi Nguyễn Phúc Ánh được người Pháp giúp đỡ lấy lại được Gia Định rồi, thì can qua nổi dậy.

Năm Quý Sửu (1793) binh Nguyễn Ánh kéo ra đánh nhà Tây Sơn, Nguyễn Văn Thành cùng Tôn Thất Hội, Nguyễn Hoàng Đức kéo đại binh đi đường bộ, Nguyễn Phúc Ánh đem chiến thuyền đi đường thủy, kéo vào Bình Khang.

Bộ binh bị chận ở Bình Thuận.

Thủy binh vào cửa Nha Trang, đánh lên Diên Khánh. Quân Tây Sơn chận lại tại bến sông Trường Cá (tức là Phương Sài hiện thời). Hai bên kịch chiến. Người chết thuyền chìm đầy cả khúc sông.

Cuối cùng quân Tây Sơn thất bại phải bỏ Diên Khánh và Bình Khang.

Chiếm được dinh Bình Khang, Nguyễn Phúc Ánh lo việc phòng thủ. Nhận thấy đại thế phủ Diên Khánh hiểm trở, bèn cho xây thành đào hào tại phủ lỵ để làm tổng hành dinh, và cất trại lập xưởng ở dãy núi gần bến Trường Cá ở Nha Trang để đóng tàu bè và giữ mặt biển(3)

Thành Diên Khánh đắp xong, Nguyễn Phúc Ánh giao cho Nguyễn Văn Thành trấn thủ. Sau cho Hoàng Tử Cảnh lại ra thay.

Thành đắp kiên cố. Phòng thủ cẩn mật. Tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu kéo quân vào đánh hai lần, năm Giáp Dần (1794) và năm Ất Mão (1795), mà không hạ được.

Vì vậy từ khi Nguyễn Phúc Ánh đắp thành Diên Khánh thì dinh Bình Khang vĩnh viễn thuộc về nhà Nguyễn.

Năm Nhâm Tuất (1802), sau khi thống nhất lãnh thổ, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long và đặt quốc hiệu là Việt Nam. Việc nước được sửa sang mọi mặt. Lãnh thổ Việt Nam, từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, chia làm 4 doanh và 23 trấn.

Dinh Bình Khang đổi làm trấn Bình Hòa. Phủ Bình Khang đổi thành phủ Bình Hòa. Dinh quan trấn thủ đóng tại thành Diên Khánh.

Đến thời Minh Mạng thứ 12 tức là năm Tân Mão (1831), theo chế độ Trung Hoa, Trấn đổi thành Tỉnh. Trấn Bình Hòa đổi thành tỉnh Khánh Hòa. Diên Khánh vẫn được dùng làm tỉnh lỵ.

Còn phủ huyện, thì phủ bình Hòa đổi thành phủ Ninh Hòa, và sáp nhập huyện Hòa Châu vào huyện Phước Điền. Thành ra tỉnh Khánh Hòa lúc bấy giờ gồm 2 phủ và 4 huyện.

Lo việc cai trị trong tỉnh có quan Bố Chánh Sứ và Án Sát Sứ đặt dưới quyền quan Tuần Vũ còn hai tỉnh Bình Thuận và Khánh Hòa, gọi là Thuận Khánh Tuần Vũ. Còn ở phủ huyện thì có quan Tri phủ, Tri huyện.

Từ đời Gia Long (1802-1820) đến cuối đời Tự Đức (1847-1883), ở Khánh Hòa không xảy ra việc gì quan trọng. Nhân dân được yên ổn làm ăn. Nhưng sau khi bọn thực dân Pháp để chân lên lãnh thổ Việt Nam, thì Khánh Hòa cũng như các tỉnh khác thường xảy ra những cuộc đổ máu.

Năm Ất Dậu (1885), Kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị xuống chiếu Cần Vương, các sĩ phu Bắc Nam đều hưởng ứng.

Ở Khánh Hòa, ông Trịnh Phong ở Phú Vinh (Vĩnh Xương), ông Trần Đường ở Hiền Lương (Vạn Ninh) và ba anh em ông Nguyễn Khanh ở Võ Cạnh (Vĩnh Xương), chiêu mộ hào kiệt, ứng nghĩa Cần vương chống Pháp.

Ông Trần Đường giữ mặc Bắc, đóng binh tại đèo Dốc Thị. Ông Trịnh Phong giữ mặt Nam, chia binh làm hai đạo, một đóng ở Diên Khánh, một đóng trên hòn Trại Thủy ở bến Trường Cá Nha Trang. Còn ba anh em ông Nguyễn Khanh lo việc tiếp tế cho toàn thể nghĩa binh.

Mùa thu năm Ất Dậu (1885), quân Pháp đổ bộ lên Nha Trang. Nghĩa binh do Trịnh Phong chỉ huy chận đánh. Tuy chỉ có hỏa mai giáo sào, song nhờ tinh thần bất khuất, nghĩa quân chiến đấu anh dũng, chận không cho quân địch tiến lên Diên Khánh. Nhưng rồi gươm giáo không địch nổi cùng súng trường, đại bác, nghĩa quân phải rút về Diên Khánh giữ thành. Quân Pháp kéo đến tấn công thành kịch liệt. Nghĩa quân ra sức chống giữ. Cứ ban ngày thì đóng chặt cổng thành ở trên bắn xuống không cho địch đến gần, còn ban đêm thì lẻn ra đánh úp.

Khi mới khởi nghĩa thì các quan Tỉnh, Phủ, Huyện đều theo nghĩa binh. Nhưng được ít lâu họ nhận thấy địch quá mạnh không thể thắng nổi, bèn lén ra đầu giặc. Bao nhiêu cơ mật trong thành đều bị tiết lộ!

Địch bèn đắp ụ đất ở ngoài thành, rồi kê súng đại bác bắn vào. Các kho thuốc súng bị bắn cháy. Nghĩa binh không chịu nổi sức công phá, phải bỏ thành, theo đường núi ra giữ mặt Bắc cùng Trần Đường.

Trần Đường chia quân ngăn các đường bộ. Trịnh Phong xuống trấn tại Hòn Khói để chặn mặt biển.

Quân Pháp lập cơ sở ở Nha Trang và Diên Khánh xong, kéo quân ra đánh mặt Bắc. Nhờ thế núi sông và sức ủng hộ của toàn dân, nghĩa quân cầm cự cùng địch bằng những trận du kích chớp nhoáng. Để thêm sức mạnh, nghĩa quân Khánh Hòa liên tiếp cùng nghĩa quân Bình Thuận, Phú Yên, Bình Định thành một khối. Nhờ vậy và gần hai năm trời chiến đấu bằng vũ khí thô sơ, nghĩa quân đã làm cho quân địch khiếp phục lòng dũng cảm, đức hy sinh của dân tộc Việt Nam trong nhiều trận kịch chiến.

Đầu thu năm Bính Tuất (1886), viên công sứ Aymonier, viên thiếu Tá De Lorme cùng tên việt gian Trần Bá Lộc từ Saigon kéo đại binh ra đánh.

Trần Bá Lộc là một tên gian xảođộc ác. Một mặt va thảm sát lương dân để khủng bố tinh thần kháng chiến, một mặt mua chuộc bọn mãi nước cầu vinh để dò biết mật khu và cơ sở kháng chiến. Rồi đem toàn lực quân đội bao vây công kích. Quân Pháp đã đông lại đầy đủ binh khí tân chế, cứ nhắm những chỗ hiểm yếu mà tấn công. Nghĩa quân đem hết tinh thầnnăng lực ra chiến đấu. Nhưng lực lượng của địch quá mạnh, nghĩa quân chỉ chống cự được hơn hai tháng thì bị đại bại. Trịnh Phong, Trần Đường, Nguyễn Khanh tuẫn quốc. Các bạn đồng chí lớp bị giết lớp bị tù đày. Còn binh lính những người còn sống đều bị Trần Bá Lộc bị bắt giết(4).

Thế là phong trào Cần Vương ở Khánh Hòa chấm dứt, và nền đô hộ Pháp xây cao.

Cũng như các tỉnh Trung kỳ, Khánh Hòa nằm dưới hai ách cai trị: Chánh phủ Pháp và Chánh phủ Nam Triều.

Cấp chỉ huy tỉnh thuộc Nam Triều gồm có Tuần Vũ, Án Sát, coi việc hành chánhtư pháp, và Lãnh binh coi việc canh gác các cơ quan cùng giữ an ninh trật tự trong tỉnh. Lỵ sở đóng tại thành Diên Khánh.

Cơ quan lãnh đạo Pháp gồm có Chánh Sứ, Phó Sứ và Giám binh, đóng tại Nha Trang.

Nhân dân gọi cơ quan chỉ huy Pháp là Tòa, cơ quan Nam Triều là Tỉnh. Và Nha Trang từ ấy trở thành tỉnh lỵ tỉnh Khánh Hòa và lần lần mở mang thành thị trấn.

Năm Mậu Tý (1888), vua Đồng Khánh trích huyện An Phước cùng 7 xã của huyện Tuy Phong và hai tổng của huyện Hòa Đa ra khỏi tỉnh Bình Thuân, và đem tháp nhập vào huyện Vĩnh Xương. Nhưng 10 năm sau, là năm Thành Thái thứ 13 (1901), các phần đất trên lại tách ra khỏi Khánh Hòa để thêm vào đạo Ninh Thuận mới thành lập.

Sau đó còn nhiều đổi thay về ranh giới, về lỵ sở và về danh hiệu của các phủ huyện. Song không có ảnh hưởng đến đời sống nhân dân bao lăm.

Và suốt thời Pháp thuộc ở Khánh Hòa không xảy ra những vụ đổ máu người Việt Nam yêu nước như ở các tỉnh miền ngoài.

Duy năm Mậu Thân (1908), người Khánh Hòa phải chứng kiến một việc thương tâm do Nam Triều tác nghiệt.

Đó là việc nhà chí sĩ Trần Quý Cáp phát động phong trào canh tân trong hàng trí thức, bị bọn quan lại của Triều đình Huế kết án tử hình và hành quyết tại cầu Sông Cạn (Diên Khánh). Việc nầy đã gieo trong lòng người dân yêu nước tỉnh Khánh Hòa và các tỉnh bạn, một mối hận nghìn thu. Cho nên khi Nhân dân có quyền liền lấy tên nhà chí sĩ đặt tên cho một con đường trong thành phố Nha Trang chạy ngay trước nhà viên Tuần Vũ đã hãm hại người hiền.

Năm Tân Tỵ (1941), Nhật đem quân đến đóng Nha Trang, một nhóm nhân sĩ có tâm huyết tổ chức một đảng bí mật hầu lật đổ Thực Dân Phong Kiến. Đảng ấy tên là Việt Nam Ái Quốc Đảng. Nhật muốn lợi dụng nên giúp vũ khí và ủng hộ về mặt tinh thần. Hai Chánh phủ Pháp Nam biết, nhưng vì sợ Nhật nên để yên. Song địa bàn hoạt động không được rộng, bởi thiếu người đủ khả năng lãnh đạo, nên không làm được việc gì có lợi cho Tổ Quốc và gây được ảnh hưởng trong nhân dân.

Mùa xuân năm Ất Dậu (9-3-1945), Việt Minh đứng dậy cướp chánh quyền. Cuộc cướp chánh quyền của Việt Minh không chút khó nhọc, vì Nhật đã đầu hàng Đồng Minh và quan lại Nam Triều không có binh lực. Nhưng Việt Minh nắm chánh quyền chỉ được hai tháng thì Pháp đổ bộ lên Nha Trang và đánh lấy lại Khánh Hòa.

Năm 1955, Chánh thể Cộng Hòa thành lập trên phần đất Miền Nam Việt Nam. Tỉnh Khánh Hòa cũng được tổ chức lại trên mọi phương diện. Các phủ huyện đổi thành quận. Các làng đổi thành xã.

Tháng 5 năm 1959, hai tổng Krang Ying và Krang Hinh thuộc tỉnh Đarlac được sát nhập vào tỉnh Khánh Hòa và lập thành quận Khánh Dương.

Tháng 4 năm 1960, 12 thôn Thượng thuộc quận Cam Lâm được trích ra khỏi Khánh Hòa để nhập vào quận Du Long tỉnh Ninh Thuận.

Tháng 10 năm 1965, một phần đất quận Cam Lâm ở phía Nam bị cắt để thiết lập Thị Xã Cam Ranh.

Hiện nay tỉnh Khánh Hòa còn 6 quận kể từ Nam ra Bắc: Cam Lâm, Diên Khánh, Vĩnh Xương, Ninh Hòa, Vạn Ninh và Khánh Dương.

tình hình trong tỉnh trong mấy năm nay tương đối khá yên ổn hơn tất cả các tỉnh Trung Việt.

Hiện thời, mặc dù ở trong tình thế bất an, nhân dân Khánh Hòa vẫn hăng hái làm ăn, hăng hái góp phần vào công việc xây dựng hòa bình thịnh vượng cho Tổ Quốc nói chung và cho tỉnh nhà nói riêng. Và chiến tranh tuy chưa dứt, nơi thôn quê còn nhiều nơi đồng bào chưa hồi cư, nhưng quang cảnh Khánh Hòa trông đã có phần khởi sắc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14877)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17815)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18222)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 15005)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13203)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21178)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32599)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15325)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12354)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12838)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27549)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12148)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34979)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17755)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11833)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12653)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14571)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32477)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19464)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12972)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14088)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14272)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15318)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14147)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14136)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11959)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53200)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11678)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13929)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13822)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20705)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14315)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13436)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13635)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34198)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16231)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14073)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14208)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13572)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15933)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13522)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22994)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27750)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13910)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24998)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13958)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31339)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13867)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15569)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14986)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant