Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần C: Kết Luận

22 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 10074)
Phần C: Kết Luận


Phần C: KẾT LUẬN

Khoa học không lương tri chỉ là sự tàn lụi của tâm linh. Đó là câu châm ngôn Pháp: “Science sans conscience n’est que ruine de l’âme ” thường được nhắc nhở đến, mỗi khi người đời gặp tai nạn do khoa học gây nên.

Tuy nhiên, không phải tất cả những phát minh của khoa học đều đem lại khổ đau cho con người. Từ thế kỷ 15, 16 có những phát minh như phát minh về ấn loát, về hơi nước, về điện v.v... đã đem lại rất nhiều lợi ích cho nhân loại, đã làm cho cuộc sống của con người trên quả đất càng thêm tươi đẹp. Do đó chúng ta thấy rằng nếu vì lợi ích chung mà chúng ta áp dụng khoa học để sáng tạo thì đó là tiến bộ về cả 2 mặt vật chất lẫn tinh thần, còn nếu vì quyền lợi riêng tư của 1 số ít cá nhân, của 1 số nước mà phát minh những vũ khí giết người hàng loạt thì đó là tàn phá, hỗn loạn, hủy diệt.

Nhưng trên thực tế, dù các tôn giáo, các tổ chức từ thiện, các nhà hiền triết, từ lâu đã lớn tiếng kêu gọi các lãnh tụ trên thế giới hãy thương yêu nhau, hãy tương trợ lẫn nhau, chiến tranh đến ngày nay vẫn còn lan tràn, hết khu vực này lại sang khu vực khác, ngay trong 1 nước hoặc trong nhiều nước. Đau thương, tang tóc vẫn sờ sờ trước mắt. Như đã nói, bao lâu khổ đau còn dày vò chúng sanh thì pháp Quán Thế Âm còn phải được hành trì liên tục, không gián đoạn. Pháp Quán Thế Âm chính là cứu khổ, cứu nạn, pháp vô úy cần phải được phổ biến khắp nơi, khắp chốn. Sở dĩ chúng sanh đau khổ là vì lục căn còn nhiễm lục trần, vì tâm của chúng sanh còn bị nhiễm ô, còn bị cuốn bởi ngoại cảnh.

Nhưng muốn cho lục căn khỏi bị nhiễm ô thì chúng ta phải tu tập pháp nhỉ căn viên thông của Bồ Tát Quán Thế Âm vốn là 1 pháp dễ hành nhứt, dễ giúp đạt kết quả nhanh nhứt. Trong 6 căn chỉ có nhỉ căn là căn có nhiều công đức hơn hết, đúng như lời nhận xét của Bồ Tát Văn Thù khi Ngài chọn lấy pháp này làm pháp tu chánh yếu cho chúng sanh mai sau trong số 25 pháp tu chứng của các vị A La HánBồ Tát.

Nhưng để cho thích hợp với người đời nay, Chân sư chúng tôi không ngần ngại gọi nó dưới 1 cái tên khác, đó là pháp lắng nhìn, lắng nghe vô sở thọ. Nói cách khác, đó là pháp nghe như không nghe mà lại nghe như thật, pháp thấy như không thấy mà lại thấy như thật.

Tuy chúng ta sống trong đời, lúc nào cũng nghe, cũng thấy, nhưng chúng ta không khổ, không lo, không sợ, đó là vì chúng ta biết cách nghe, biết cách thấy theo pháp môn của Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu chúng ta không khổ, không lo, không sợ tức là chúng ta đã được giải thoát khỏi các phiền não đang trói buộc người đời. Mà giải thoát được tức là chúng ta đả được an vui và hạnh phúc ngay trong đời này, chớ không cần phải đợi đến lúc lâm chung, lìa bỏ thân xác mới trở về cõi Cực Lạc hay Thiên Đàng để được hưởng hạnh phúc đời đời như các tôn giáo thường dạy.

An vui, hạnh phúc khổ đau, sầu thảm, tất cả đều ở nơi tâm mình. Nếu tâm mình đã vô sở thọ, đã vô trụ rồi thì đâu còn phân biệt an vui hay khổ đau ?

Vì thế mới nói rằng thành tựu được pháp lắng nhìn, lắng nghe vô sở thọ rồi thì chúng ta liền được tự tại, tức là được tự do trong hiện tại, chúng ta liền được an nhiên trước mọi diễn biến của cuộc đời.

Song song với việc hành pháp bất nhiễm như trên, chúng ta còn phải chiếu soi nội tâm để kịp thời giác các tạp niệm và vọng niệm luôn xẹt ra trong đầu.

Áp dụng chơn lý Ngũ uẩn giai không, nói cách khác, vọng tức chơn, chúng ta mới thấu rõ vọng niệm, tạp niệm cũng đều là chơn niệm. Áp dụng thường xuyên chơn lý đó, chúng ta lần hồi sẽ chứng ngộ vô phân biệt trí, bình đẳng tánh trí. Mà chứng ngộ như thế là chúng ta đã hòa nhập được Chơn Như, đã hoàn tất lộ trình đi từ Sắc trở về Không.

Lộ trình này tuy dài và khó nhưng chúng ta không nên ngại núi e sông, chúng ta hãy vững tâm từng bước, từng bước tiến lên bằng cách phát huy tâm Từ, Bi, Hỉ, Xả của Bồ Tát Quán Thế Âm qua pháp Phổ Môn cứu khổ cứu nạn của Ngài. Chúng ta không cần phải đợi đến khi hòa nhập được Chơn Như hoàn tất lộ trình tu Huệ, mới phát đại nguyện độ sanh, bởi lẽ thế giới, đất nước khổ đau đang chờ đôi bàn tay cứu vớt của chúng ta. Chỉ cần tỏ ngộ được Phật tâm nơi lòng thì chúng ta có thể bắt đầu song tu Phước Huệ. Phước ở đây không phải là báo mà người đời thường mong cầu khi họ bố thí, giúp người, trái lại song tu phước huệ có nghĩa là song tu công đứctrí huệ.

Công đức ở trong Chơn NhưChơn Như thì vô hình, vô tướng, trùm khắp vũ trụ bao la, nên công đức cũng vậy, cũng vô biên, không bờ, không bến, không thể suy lường.

Nhưng muốn tạo dựng công đứctrí huệ, chúng ta phải giữ tâm vô sở thọ, vô trụ khi đối cảnh, đối pháp, khi làm việc hay rảnh rỗi nghĩa là tâm chúng ta lúc nào cũng bình thường, không loạn động.

Mà hễ tâm không loạn động, được bình thường thì huệ khai, trí huệ hiện bày. Nhờ vậy mà chúng ta có thể tùy duyên ứng phó mọi việc trên đời để đem lại lợi lạc cho người.

Vì thế chúng ta mới thấy rằng công đức tức là trí huệ. Tuy phân tách làm hai nhưng công đứctrí huệ chỉ là 1 mà thôi. Lúc đầu khi chúng ta còn chấp thì việc tu phước chỉ nhằm mục đích hưởng phước báo. Nhưng khi 1 niệm đã ngộ, tâm không còn chấp nữa, thì phước báo năm xưa liền biến thành rừng công đức.

Hành pháp Phổ Môn cứu khổ, cứu nạn của Bồ Tát Quán Thế Âm với tâm vô trụ tức là song tu Phước huệ, song tu công đứctrí tuệ.

Sau cùng, nếu muốn gia tốc việc xây dựng, củng cố và hoàn mãn công đức, chúng ta không thể không hành trì Mật Tông với các câu chú của Bồ Tát. Tùy sở thích, chúng ta có thể trì niệm 1 thần chú mà thôi như thần chú Bát Nhã hay thần chú Chuẩn ĐềThành tựu 1 thần chú tức là chúng ta sẽ thành tựu tất cả bài chú còn lại của Ngài, bởi lẽ lúc đó chúng ta đã có đủ thần lực để có thể thành tựu mọi thần chú khác. Lúc đó lực tâm của chúng ta đã hòa nhập cùng với lực của vũ trụ, cả 2 lực nay thành 1 lực.

Dù không móng tâm mong cầu thần thông, nhưng lúc đó chúng ta có thể diệu dụng Chơn Như, nghĩa là chúng ta có thể hiển bày các đại thần thông tam muội, khó thể nghĩ bàn.

Chúng tôi nghĩ rằng trong thời kỳ đấu tranh dai dẳng như hiện nay, thời kỳnhân loại còn đang chìm đắm trong đau khổ, quyển sách nhỏ này sẽ đem lại nhiều lợi lạc cho những ai đã nuôi sẵn chí hướng giải khổ cho mình và cho người, chí hướng tự độ và độ tha.
 
 

HẾT.

10 ĐIỀU TÂM NIỆM CỦA
NGƯỜI TU ĐẠI THỪA

Người tu Đại Thừa cần phải hiểu biết đúng Phật pháp vì có hiểu biết đúng mới hành động đúng, mà hễ hành đúng thì đạt kết quả đúng, tức là được an vui và hạnh phúc, được giải thoát khỏi các phiền não, khổ lụy ngay trong kiếp sống hiện tại. Do đó, chúng ta cần phải nhớ và thực hành 10 điều căn bản sau đây:

Điều 1. Lìa đời để đi tìm đạo giác ngộ là 1 hành động vô bổ giống như đi tìm sừng thỏ, lông rùa. Vì thế xuất gia tâm cần thiết hơn xuất gia tướng.

Điều 2. Quy y Tam Bảo có nghĩa là nương theo Phật, Pháp, Tăng nơi lòng mình, mà Phật, Pháp, Tăng chínhPháp thân, Báo thânHóa thân, cũng là Giới, Định, Huệ và cũng là Không, vô tướng, vô tác.

Điều 3. Vạn Pháp đều lá Phật pháp, là pháp giải thoát vì chúng hiển thị lẻ diệu của Pháp Hoa. Khi đối cảnh, đối pháp mà mình có cái nhìn bình đẳng, không hai, vô phân biệt, không chấp chánh, tà, lành dữ, vui buồn thì ngay lúc đó tâm mình đã được bình thản, rỗng rang, tự tại thoát khỏi sự lôi cuốn của ngoại cảnh, lục căn của mình không còn nhiễm lục trần. Tâm đó chính là tâm vô trụ nơi các pháp, trong tư duy, lời nóiviệc làm.

Điều 4. Tâm vô trụ, tâm không chỉ có thể thành tựu được khi mình đã thực hành lâu ngày pháp tu nhĩ căn viên thông còn gọi là pháp lắng nhìn, lắng nghe vô sở thọ.

Điều 5. Khi tâm đã thật sự vô trụ rồi thì liền đó 4 trọng giới Dâm, Sát, Đạo, Vọng đều vắng lặng, tâm không bị loạn động, luôn ở trong Định bởi lẽ mình đã thâm nhập diệu lý vạn pháp đều không, đều lưu xuất từ chỗ CHƠN KHÔNG MÀ DIỆU HỮU. Giới, Định, Huệ lúc đó được tròn đầy.

Điều 6. Chấp ngã là chấp thân tâm này là Ta thật để rồi suốt đời lao tâm nhọc trí tìm cách củng cố cái Ta và phát triển những gì thuộc về Ta. Muốn dứt trừ tâm chấp ngã, chúng ta cần phải hành chánh niệm tức là thường xuyên trì niệm chơn ngôn hoặc niệm 6 chữ Di Đà.

Chánh niệm không phải chỉ gồm đơn thuần những niệm lành Từ, Bi, Hỉ, Xã, trái lại nó còn có nghĩa là khi khởi niệm tưởng các việc đã qua để làm dữ kiện cho tư duy hiện tại, thì đừng để cho tất tình khởi theo niệm tưởng đó. Như thế mới gọi là niệm mà vô niệm.

Ngoài ra, mình còn phải chánh giác, luôn tỉnh táo để kịp thời biết được các tạp niệm vừa mới xẹt ra trong đầu.

Điều 7. Chánh kiến là tỏ ngộ và thâm nhập 4 đặc tánh Thường hằng, Năng sanh, Chiếu soi và Thanh tịnh của Chơn Như, từ đó mới thấy được vạn pháp như thật, viên dung tướng tánh và không còn mê mờ trước các ảo ảnh, ảo giác của cuộc đời.

Điều 8. Ngồi mãi để trụ tâm, quán tịnh là bệnh, không phải là Thiền. Định, Huệ hay Thiền là chiếu soi nội tâmPháp chiếu soi chính là pháp chiếu kiến ngũ uẩn giai không.

Điều 9. Cần phát huy hạnh nhẩn nhục đối với mọi người vì nó có công năng dứt trừ tâm phân biệt. Đừng bao giờ phản đối, tranh cải với bất cứ ai, đừng chấp chặt ý kiến của mình để áp đặt lên người khác, bởi lẽ những điều thấy, nghe, hay, biết của mình chưa chắc là đúng, mà dù cho có đúng cũng chưa chắc gì được dễ dàng chấp nhận.

Điều 10. Kiến tánh là thấy được ánh sáng của Đạo trong đời sống, thấy được tánh năng sanh, năng hóa của Chơn Như tức là sự diệu dụng không thể nghĩ bàn của pháp giới nhằm thúc đẩy sự tiến hóa chung của vạn vật và muôn loài chúng sanh.
 
 

Ðảnh Chú Đại Bi
(Maha Karuna Dharani) Vô Ngại Đại Bi Tâm DALANI

“ Nay con xin sám hối tất cả tội lỗi mà con đã gây nên từ trước đến giờ bởi tham, sân, si, và thân, khẩu, ý. Con thành tâm nguyện tiêu trừ hết, không còn tái phạm. “ 

Nay con xin nguyện cầu Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát từ bi độ cho con được…

Nam mô Hội Thượng Phật, Thiên thủ, Thiên nhãnBồ Tát Quán Thế Âmquảng đạiviên mãn, vô ngại Đại Bi tâm Ðàlani.

1. Namah Ratnatrayaya. 43.Sara Sara.
2. Namo Arya- 44.Siri Siri.
3. VaLokitesvaraya. 45.Suru Suru.
4. Bodhisattvaya 46.Bodhiya Bodhiya.
5. Mahasattvaya. 47.Bodhaya Bodhaya.
6. Mahakaruniakaya. 48.Maitriya.
7. Om. 49.Narakindi.
8. Sarva Rabhaye. 50.Dharsinina.
9. Sudhanadasya. 51.Payamana.
10.Namo Skrtva i Mom Arya- 52.Svaha.
11.Valokitesvara Ramdhava. 53.Siddhaya.
12.Namo Narakindi. 54.Svaha. 
13.Herimaha Vadhasame. 55.Maha Siddhaya.
14.Sarva Atha. Dusubhum. 56.Svaha.
15.Ajeyam. 57.Siddhayoge
16.Sarva Sadha. 58.Svaraya.
17.Namo Vaga. 59.Svaha.
18.Mavadudhu. Tadyatha. 60.Narakindi
19.Om. Avaloki. 61.Svaha.
20.Lokate. 62.Maranara.
21.Karate. 63.Svaha.
22.Ehre. 64.Sirasam Amukhaya.
23.Mahabodhisattva. 65.Svaha.
24.Sarva Sarva. 66.Sarva Maha Asiddhaya
25.Mala Mala 67.Svaha.
26.Mahe Mahredhayam. 68.Cakra Asiddhaya.
27.Kuru Kuru Karmam. 69.Svaha.
28.Dhuru Dhuru Vajayate. 70.Padmakastaya.
29.Maha Vajayate. 71.Svaha.
30.Dhara Dhara. 72.Narakindi Vagaraya.
31.Dhirini. 73.Svaha
32.Svaraya. 74.Mavari Samkraya.
33.Cala Cala. 75.Svaha.
34.Mamavamara. 76.Namah Ratnatrayaya.
35.Muktele. 77.Namo Arya-
36.Ehe Ehe. 78.Valokites-
37.Cinda Cinda. 79.Varaya
38.Arsam Pracali. 80.Svaha
39.Vasa Vasam 81.Om. Siddhyantu
40.Prasaya. 82.Mantra
41.Huru Huru Mara. 83.Padaya.
42.Huru Huru Hri. 84.Svaha.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Thiên thủ, Thiên nhãnBồ Tát Tự Tại Quán Thế Âm.

Ðảnh Chú Đại Bi
(Maha Karuna Dharani) Vô Ngại Đại Bi Tâm DALANI

“ Nay con xin sám hối tất cả tội lỗi mà con đã gây nên từ trước đến giờ bởi tham, sân, si, và thân, khẩu, ý. Con thành tâm nguyện tiêu trừ hết, không còn tái phạm. “

Nay con xin nguyện cầu Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát từ bi độ cho con được…

Nam mô Hội Thượng Phật, Thiên thủ, Thiên nhãnBồ Tát Quán Thế Âmquảng đạiviên mãn, vô ngại Đại Bi tâm Ðàlani.

Namo ratnatràyàya. 
Namo Aryà valokiteshvaràya Bodhisattvaya Mahasattvaya Mahàkarunikàya. 
Om. Sarva rabhaye Sudhanadàsya. 
Namo Skritva I mom Aryà Valokitesvara Rambhava.
Namo Narakindi Herimahà Vadhàsame.
Sarvà athas Dusubhum ajeyam sarva sarva namovarga Mavàdudhu. Tadyathà.
Om. Avaloki lokite karate.
Ehre, Mahà bodhisattva Sarva Sarva, Mala Mala.
Mahe Mahredhayam kuru kuru karman.
Dhuru Dhuru, vajàyate Mahà vajayate.
Dhara Dhara, Dhirini Svaràya. 
Chala Chala, Mamavamara Muktele 
Ehe Ehe, Cinda Cinda. Arsam prachali. 
Vasa Vasam, prasàya Huru Huru Mara.
Huru Huru Hri, Sara Sara, Siri Siri, Suru Suru.
Bodhiya Bodhiya, Bodhaya Bodhaya. 
Maitreya, Narakindi Dharsinina.
Payamana svaha, Siddhaya svàhà. 
Maha Siddhàya svaha. 
Siddhayoge Svaraya svaha. Narakindi svàhà.
Marànarà svaha. Sirasam Armukhàya svaha. 
Sarva Mahà Asiddhaya svaha. Chakra Asiddhaya svaha. 
Padmakastaya svaha. Narakindi Vagaraya svaha.
Mavari Samkraya svaha. 
Namo Ratnatràyàya. 
Namo Aryàvalokiteshvaraya svaha.
Om, Siddhyantu mantra pàdàya. Svàhà.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Thiên thủ, Thiên nhãnBồ Tát Tự Tại Quán Thế Âm.

TÂM CHÚ LỤC TỰ ĐẠI MINH
Om Ma Ni Pad Me Hum

PHẬT MẨU CHUẨN ĐỀ THẦN CHÚ
Phần Qui Kính
Khởi thủ quy y Tô Tất Đế
Đầu diện đảnh lễ Thất Cu Chi
Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn Đề
Duy Nguyện từ bi thường gia hộ
(1 lạy)
Tâm Chú

Namo saptanam samyak sambodhi Kothinam Tadyatha.
Om chale chole chunde svaha. Bhrum.

KỆ HỒI HƯỚNG

Quán Thế Âm tức Diệu Âm,
Từ Bi cứu khổ che trăm vạn người.
Thế Âm tuy ở xa vời.
Bao trùm khắp cõi như Triều Hải Âm.
Thế Âm cũng tức Phạm Âm.
Yêu thương sanh chúng ngàn năm dạy đời.
Pháp Ngài như ngọc sáng ngời,
Hành trì khuya sớm chẳng dời đổi tâm.
Cốt sao làm chủ hai tâm,
Sanh sanh diệt diệt âm thầm truy ra.
Những mong khắp chốn, khắp nhà,
Phổ Môn tu tập Ta Bà độ sanh.

Nam Mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Thiên thủ, Thiên nhãnBồ Tát Tự Tại Quán Thế Âm.

 

 

Avalokiteshvara Mandala
Nam Mô Thiên thủ, Thiên nhãnBồ Tát Tự Tại Quán Thế Âm

WP: Nguyên Tín và Tịnh Hương 

Bài Đọc Thêm:
Nguồn gốc tích truyện Quan Âm Thị Kính và Quan Âm Diệu Thiện

Source: thuvienhoasen



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14305)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14565)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11842)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14361)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13275)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14644)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12647)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25247)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27886)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26360)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17233)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16526)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15917)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22140)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17133)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24909)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21969)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19069)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16172)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21725)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16784)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14667)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16705)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25027)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18777)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21199)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14779)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14375)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16616)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18012)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12926)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14947)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12712)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13889)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14605)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28030)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27199)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14347)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20967)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14673)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24181)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28688)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14736)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13291)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16458)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27244)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12019)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16078)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21495)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12378)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant