Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần C: Kết Luận

22 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 10081)
Phần C: Kết Luận


Phần C: KẾT LUẬN

Khoa học không lương tri chỉ là sự tàn lụi của tâm linh. Đó là câu châm ngôn Pháp: “Science sans conscience n’est que ruine de l’âme ” thường được nhắc nhở đến, mỗi khi người đời gặp tai nạn do khoa học gây nên.

Tuy nhiên, không phải tất cả những phát minh của khoa học đều đem lại khổ đau cho con người. Từ thế kỷ 15, 16 có những phát minh như phát minh về ấn loát, về hơi nước, về điện v.v... đã đem lại rất nhiều lợi ích cho nhân loại, đã làm cho cuộc sống của con người trên quả đất càng thêm tươi đẹp. Do đó chúng ta thấy rằng nếu vì lợi ích chung mà chúng ta áp dụng khoa học để sáng tạo thì đó là tiến bộ về cả 2 mặt vật chất lẫn tinh thần, còn nếu vì quyền lợi riêng tư của 1 số ít cá nhân, của 1 số nước mà phát minh những vũ khí giết người hàng loạt thì đó là tàn phá, hỗn loạn, hủy diệt.

Nhưng trên thực tế, dù các tôn giáo, các tổ chức từ thiện, các nhà hiền triết, từ lâu đã lớn tiếng kêu gọi các lãnh tụ trên thế giới hãy thương yêu nhau, hãy tương trợ lẫn nhau, chiến tranh đến ngày nay vẫn còn lan tràn, hết khu vực này lại sang khu vực khác, ngay trong 1 nước hoặc trong nhiều nước. Đau thương, tang tóc vẫn sờ sờ trước mắt. Như đã nói, bao lâu khổ đau còn dày vò chúng sanh thì pháp Quán Thế Âm còn phải được hành trì liên tục, không gián đoạn. Pháp Quán Thế Âm chính là cứu khổ, cứu nạn, pháp vô úy cần phải được phổ biến khắp nơi, khắp chốn. Sở dĩ chúng sanh đau khổ là vì lục căn còn nhiễm lục trần, vì tâm của chúng sanh còn bị nhiễm ô, còn bị cuốn bởi ngoại cảnh.

Nhưng muốn cho lục căn khỏi bị nhiễm ô thì chúng ta phải tu tập pháp nhỉ căn viên thông của Bồ Tát Quán Thế Âm vốn là 1 pháp dễ hành nhứt, dễ giúp đạt kết quả nhanh nhứt. Trong 6 căn chỉ có nhỉ căn là căn có nhiều công đức hơn hết, đúng như lời nhận xét của Bồ Tát Văn Thù khi Ngài chọn lấy pháp này làm pháp tu chánh yếu cho chúng sanh mai sau trong số 25 pháp tu chứng của các vị A La HánBồ Tát.

Nhưng để cho thích hợp với người đời nay, Chân sư chúng tôi không ngần ngại gọi nó dưới 1 cái tên khác, đó là pháp lắng nhìn, lắng nghe vô sở thọ. Nói cách khác, đó là pháp nghe như không nghe mà lại nghe như thật, pháp thấy như không thấy mà lại thấy như thật.

Tuy chúng ta sống trong đời, lúc nào cũng nghe, cũng thấy, nhưng chúng ta không khổ, không lo, không sợ, đó là vì chúng ta biết cách nghe, biết cách thấy theo pháp môn của Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu chúng ta không khổ, không lo, không sợ tức là chúng ta đã được giải thoát khỏi các phiền não đang trói buộc người đời. Mà giải thoát được tức là chúng ta đả được an vui và hạnh phúc ngay trong đời này, chớ không cần phải đợi đến lúc lâm chung, lìa bỏ thân xác mới trở về cõi Cực Lạc hay Thiên Đàng để được hưởng hạnh phúc đời đời như các tôn giáo thường dạy.

An vui, hạnh phúc khổ đau, sầu thảm, tất cả đều ở nơi tâm mình. Nếu tâm mình đã vô sở thọ, đã vô trụ rồi thì đâu còn phân biệt an vui hay khổ đau ?

Vì thế mới nói rằng thành tựu được pháp lắng nhìn, lắng nghe vô sở thọ rồi thì chúng ta liền được tự tại, tức là được tự do trong hiện tại, chúng ta liền được an nhiên trước mọi diễn biến của cuộc đời.

Song song với việc hành pháp bất nhiễm như trên, chúng ta còn phải chiếu soi nội tâm để kịp thời giác các tạp niệm và vọng niệm luôn xẹt ra trong đầu.

Áp dụng chơn lý Ngũ uẩn giai không, nói cách khác, vọng tức chơn, chúng ta mới thấu rõ vọng niệm, tạp niệm cũng đều là chơn niệm. Áp dụng thường xuyên chơn lý đó, chúng ta lần hồi sẽ chứng ngộ vô phân biệt trí, bình đẳng tánh trí. Mà chứng ngộ như thế là chúng ta đã hòa nhập được Chơn Như, đã hoàn tất lộ trình đi từ Sắc trở về Không.

Lộ trình này tuy dài và khó nhưng chúng ta không nên ngại núi e sông, chúng ta hãy vững tâm từng bước, từng bước tiến lên bằng cách phát huy tâm Từ, Bi, Hỉ, Xả của Bồ Tát Quán Thế Âm qua pháp Phổ Môn cứu khổ cứu nạn của Ngài. Chúng ta không cần phải đợi đến khi hòa nhập được Chơn Như hoàn tất lộ trình tu Huệ, mới phát đại nguyện độ sanh, bởi lẽ thế giới, đất nước khổ đau đang chờ đôi bàn tay cứu vớt của chúng ta. Chỉ cần tỏ ngộ được Phật tâm nơi lòng thì chúng ta có thể bắt đầu song tu Phước Huệ. Phước ở đây không phải là báo mà người đời thường mong cầu khi họ bố thí, giúp người, trái lại song tu phước huệ có nghĩa là song tu công đứctrí huệ.

Công đức ở trong Chơn NhưChơn Như thì vô hình, vô tướng, trùm khắp vũ trụ bao la, nên công đức cũng vậy, cũng vô biên, không bờ, không bến, không thể suy lường.

Nhưng muốn tạo dựng công đứctrí huệ, chúng ta phải giữ tâm vô sở thọ, vô trụ khi đối cảnh, đối pháp, khi làm việc hay rảnh rỗi nghĩa là tâm chúng ta lúc nào cũng bình thường, không loạn động.

Mà hễ tâm không loạn động, được bình thường thì huệ khai, trí huệ hiện bày. Nhờ vậy mà chúng ta có thể tùy duyên ứng phó mọi việc trên đời để đem lại lợi lạc cho người.

Vì thế chúng ta mới thấy rằng công đức tức là trí huệ. Tuy phân tách làm hai nhưng công đứctrí huệ chỉ là 1 mà thôi. Lúc đầu khi chúng ta còn chấp thì việc tu phước chỉ nhằm mục đích hưởng phước báo. Nhưng khi 1 niệm đã ngộ, tâm không còn chấp nữa, thì phước báo năm xưa liền biến thành rừng công đức.

Hành pháp Phổ Môn cứu khổ, cứu nạn của Bồ Tát Quán Thế Âm với tâm vô trụ tức là song tu Phước huệ, song tu công đứctrí tuệ.

Sau cùng, nếu muốn gia tốc việc xây dựng, củng cố và hoàn mãn công đức, chúng ta không thể không hành trì Mật Tông với các câu chú của Bồ Tát. Tùy sở thích, chúng ta có thể trì niệm 1 thần chú mà thôi như thần chú Bát Nhã hay thần chú Chuẩn ĐềThành tựu 1 thần chú tức là chúng ta sẽ thành tựu tất cả bài chú còn lại của Ngài, bởi lẽ lúc đó chúng ta đã có đủ thần lực để có thể thành tựu mọi thần chú khác. Lúc đó lực tâm của chúng ta đã hòa nhập cùng với lực của vũ trụ, cả 2 lực nay thành 1 lực.

Dù không móng tâm mong cầu thần thông, nhưng lúc đó chúng ta có thể diệu dụng Chơn Như, nghĩa là chúng ta có thể hiển bày các đại thần thông tam muội, khó thể nghĩ bàn.

Chúng tôi nghĩ rằng trong thời kỳ đấu tranh dai dẳng như hiện nay, thời kỳnhân loại còn đang chìm đắm trong đau khổ, quyển sách nhỏ này sẽ đem lại nhiều lợi lạc cho những ai đã nuôi sẵn chí hướng giải khổ cho mình và cho người, chí hướng tự độ và độ tha.
 
 

HẾT.

10 ĐIỀU TÂM NIỆM CỦA
NGƯỜI TU ĐẠI THỪA

Người tu Đại Thừa cần phải hiểu biết đúng Phật pháp vì có hiểu biết đúng mới hành động đúng, mà hễ hành đúng thì đạt kết quả đúng, tức là được an vui và hạnh phúc, được giải thoát khỏi các phiền não, khổ lụy ngay trong kiếp sống hiện tại. Do đó, chúng ta cần phải nhớ và thực hành 10 điều căn bản sau đây:

Điều 1. Lìa đời để đi tìm đạo giác ngộ là 1 hành động vô bổ giống như đi tìm sừng thỏ, lông rùa. Vì thế xuất gia tâm cần thiết hơn xuất gia tướng.

Điều 2. Quy y Tam Bảo có nghĩa là nương theo Phật, Pháp, Tăng nơi lòng mình, mà Phật, Pháp, Tăng chínhPháp thân, Báo thânHóa thân, cũng là Giới, Định, Huệ và cũng là Không, vô tướng, vô tác.

Điều 3. Vạn Pháp đều lá Phật pháp, là pháp giải thoát vì chúng hiển thị lẻ diệu của Pháp Hoa. Khi đối cảnh, đối pháp mà mình có cái nhìn bình đẳng, không hai, vô phân biệt, không chấp chánh, tà, lành dữ, vui buồn thì ngay lúc đó tâm mình đã được bình thản, rỗng rang, tự tại thoát khỏi sự lôi cuốn của ngoại cảnh, lục căn của mình không còn nhiễm lục trần. Tâm đó chính là tâm vô trụ nơi các pháp, trong tư duy, lời nóiviệc làm.

Điều 4. Tâm vô trụ, tâm không chỉ có thể thành tựu được khi mình đã thực hành lâu ngày pháp tu nhĩ căn viên thông còn gọi là pháp lắng nhìn, lắng nghe vô sở thọ.

Điều 5. Khi tâm đã thật sự vô trụ rồi thì liền đó 4 trọng giới Dâm, Sát, Đạo, Vọng đều vắng lặng, tâm không bị loạn động, luôn ở trong Định bởi lẽ mình đã thâm nhập diệu lý vạn pháp đều không, đều lưu xuất từ chỗ CHƠN KHÔNG MÀ DIỆU HỮU. Giới, Định, Huệ lúc đó được tròn đầy.

Điều 6. Chấp ngã là chấp thân tâm này là Ta thật để rồi suốt đời lao tâm nhọc trí tìm cách củng cố cái Ta và phát triển những gì thuộc về Ta. Muốn dứt trừ tâm chấp ngã, chúng ta cần phải hành chánh niệm tức là thường xuyên trì niệm chơn ngôn hoặc niệm 6 chữ Di Đà.

Chánh niệm không phải chỉ gồm đơn thuần những niệm lành Từ, Bi, Hỉ, Xã, trái lại nó còn có nghĩa là khi khởi niệm tưởng các việc đã qua để làm dữ kiện cho tư duy hiện tại, thì đừng để cho tất tình khởi theo niệm tưởng đó. Như thế mới gọi là niệm mà vô niệm.

Ngoài ra, mình còn phải chánh giác, luôn tỉnh táo để kịp thời biết được các tạp niệm vừa mới xẹt ra trong đầu.

Điều 7. Chánh kiến là tỏ ngộ và thâm nhập 4 đặc tánh Thường hằng, Năng sanh, Chiếu soi và Thanh tịnh của Chơn Như, từ đó mới thấy được vạn pháp như thật, viên dung tướng tánh và không còn mê mờ trước các ảo ảnh, ảo giác của cuộc đời.

Điều 8. Ngồi mãi để trụ tâm, quán tịnh là bệnh, không phải là Thiền. Định, Huệ hay Thiền là chiếu soi nội tâmPháp chiếu soi chính là pháp chiếu kiến ngũ uẩn giai không.

Điều 9. Cần phát huy hạnh nhẩn nhục đối với mọi người vì nó có công năng dứt trừ tâm phân biệt. Đừng bao giờ phản đối, tranh cải với bất cứ ai, đừng chấp chặt ý kiến của mình để áp đặt lên người khác, bởi lẽ những điều thấy, nghe, hay, biết của mình chưa chắc là đúng, mà dù cho có đúng cũng chưa chắc gì được dễ dàng chấp nhận.

Điều 10. Kiến tánh là thấy được ánh sáng của Đạo trong đời sống, thấy được tánh năng sanh, năng hóa của Chơn Như tức là sự diệu dụng không thể nghĩ bàn của pháp giới nhằm thúc đẩy sự tiến hóa chung của vạn vật và muôn loài chúng sanh.
 
 

Ðảnh Chú Đại Bi
(Maha Karuna Dharani) Vô Ngại Đại Bi Tâm DALANI

“ Nay con xin sám hối tất cả tội lỗi mà con đã gây nên từ trước đến giờ bởi tham, sân, si, và thân, khẩu, ý. Con thành tâm nguyện tiêu trừ hết, không còn tái phạm. “ 

Nay con xin nguyện cầu Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát từ bi độ cho con được…

Nam mô Hội Thượng Phật, Thiên thủ, Thiên nhãnBồ Tát Quán Thế Âmquảng đạiviên mãn, vô ngại Đại Bi tâm Ðàlani.

1. Namah Ratnatrayaya. 43.Sara Sara.
2. Namo Arya- 44.Siri Siri.
3. VaLokitesvaraya. 45.Suru Suru.
4. Bodhisattvaya 46.Bodhiya Bodhiya.
5. Mahasattvaya. 47.Bodhaya Bodhaya.
6. Mahakaruniakaya. 48.Maitriya.
7. Om. 49.Narakindi.
8. Sarva Rabhaye. 50.Dharsinina.
9. Sudhanadasya. 51.Payamana.
10.Namo Skrtva i Mom Arya- 52.Svaha.
11.Valokitesvara Ramdhava. 53.Siddhaya.
12.Namo Narakindi. 54.Svaha. 
13.Herimaha Vadhasame. 55.Maha Siddhaya.
14.Sarva Atha. Dusubhum. 56.Svaha.
15.Ajeyam. 57.Siddhayoge
16.Sarva Sadha. 58.Svaraya.
17.Namo Vaga. 59.Svaha.
18.Mavadudhu. Tadyatha. 60.Narakindi
19.Om. Avaloki. 61.Svaha.
20.Lokate. 62.Maranara.
21.Karate. 63.Svaha.
22.Ehre. 64.Sirasam Amukhaya.
23.Mahabodhisattva. 65.Svaha.
24.Sarva Sarva. 66.Sarva Maha Asiddhaya
25.Mala Mala 67.Svaha.
26.Mahe Mahredhayam. 68.Cakra Asiddhaya.
27.Kuru Kuru Karmam. 69.Svaha.
28.Dhuru Dhuru Vajayate. 70.Padmakastaya.
29.Maha Vajayate. 71.Svaha.
30.Dhara Dhara. 72.Narakindi Vagaraya.
31.Dhirini. 73.Svaha
32.Svaraya. 74.Mavari Samkraya.
33.Cala Cala. 75.Svaha.
34.Mamavamara. 76.Namah Ratnatrayaya.
35.Muktele. 77.Namo Arya-
36.Ehe Ehe. 78.Valokites-
37.Cinda Cinda. 79.Varaya
38.Arsam Pracali. 80.Svaha
39.Vasa Vasam 81.Om. Siddhyantu
40.Prasaya. 82.Mantra
41.Huru Huru Mara. 83.Padaya.
42.Huru Huru Hri. 84.Svaha.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Thiên thủ, Thiên nhãnBồ Tát Tự Tại Quán Thế Âm.

Ðảnh Chú Đại Bi
(Maha Karuna Dharani) Vô Ngại Đại Bi Tâm DALANI

“ Nay con xin sám hối tất cả tội lỗi mà con đã gây nên từ trước đến giờ bởi tham, sân, si, và thân, khẩu, ý. Con thành tâm nguyện tiêu trừ hết, không còn tái phạm. “

Nay con xin nguyện cầu Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát từ bi độ cho con được…

Nam mô Hội Thượng Phật, Thiên thủ, Thiên nhãnBồ Tát Quán Thế Âmquảng đạiviên mãn, vô ngại Đại Bi tâm Ðàlani.

Namo ratnatràyàya. 
Namo Aryà valokiteshvaràya Bodhisattvaya Mahasattvaya Mahàkarunikàya. 
Om. Sarva rabhaye Sudhanadàsya. 
Namo Skritva I mom Aryà Valokitesvara Rambhava.
Namo Narakindi Herimahà Vadhàsame.
Sarvà athas Dusubhum ajeyam sarva sarva namovarga Mavàdudhu. Tadyathà.
Om. Avaloki lokite karate.
Ehre, Mahà bodhisattva Sarva Sarva, Mala Mala.
Mahe Mahredhayam kuru kuru karman.
Dhuru Dhuru, vajàyate Mahà vajayate.
Dhara Dhara, Dhirini Svaràya. 
Chala Chala, Mamavamara Muktele 
Ehe Ehe, Cinda Cinda. Arsam prachali. 
Vasa Vasam, prasàya Huru Huru Mara.
Huru Huru Hri, Sara Sara, Siri Siri, Suru Suru.
Bodhiya Bodhiya, Bodhaya Bodhaya. 
Maitreya, Narakindi Dharsinina.
Payamana svaha, Siddhaya svàhà. 
Maha Siddhàya svaha. 
Siddhayoge Svaraya svaha. Narakindi svàhà.
Marànarà svaha. Sirasam Armukhàya svaha. 
Sarva Mahà Asiddhaya svaha. Chakra Asiddhaya svaha. 
Padmakastaya svaha. Narakindi Vagaraya svaha.
Mavari Samkraya svaha. 
Namo Ratnatràyàya. 
Namo Aryàvalokiteshvaraya svaha.
Om, Siddhyantu mantra pàdàya. Svàhà.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Thiên thủ, Thiên nhãnBồ Tát Tự Tại Quán Thế Âm.

TÂM CHÚ LỤC TỰ ĐẠI MINH
Om Ma Ni Pad Me Hum

PHẬT MẨU CHUẨN ĐỀ THẦN CHÚ
Phần Qui Kính
Khởi thủ quy y Tô Tất Đế
Đầu diện đảnh lễ Thất Cu Chi
Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn Đề
Duy Nguyện từ bi thường gia hộ
(1 lạy)
Tâm Chú

Namo saptanam samyak sambodhi Kothinam Tadyatha.
Om chale chole chunde svaha. Bhrum.

KỆ HỒI HƯỚNG

Quán Thế Âm tức Diệu Âm,
Từ Bi cứu khổ che trăm vạn người.
Thế Âm tuy ở xa vời.
Bao trùm khắp cõi như Triều Hải Âm.
Thế Âm cũng tức Phạm Âm.
Yêu thương sanh chúng ngàn năm dạy đời.
Pháp Ngài như ngọc sáng ngời,
Hành trì khuya sớm chẳng dời đổi tâm.
Cốt sao làm chủ hai tâm,
Sanh sanh diệt diệt âm thầm truy ra.
Những mong khắp chốn, khắp nhà,
Phổ Môn tu tập Ta Bà độ sanh.

Nam Mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Thiên thủ, Thiên nhãnBồ Tát Tự Tại Quán Thế Âm.

 

 

Avalokiteshvara Mandala
Nam Mô Thiên thủ, Thiên nhãnBồ Tát Tự Tại Quán Thế Âm

WP: Nguyên Tín và Tịnh Hương 

Bài Đọc Thêm:
Nguồn gốc tích truyện Quan Âm Thị Kính và Quan Âm Diệu Thiện

Source: thuvienhoasen



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26250)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21662)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23437)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14753)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12965)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19866)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13830)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22782)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 11995)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12434)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 24095)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13741)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21097)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25695)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19263)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23258)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21410)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18343)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 14012)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15479)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17895)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21985)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17571)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 30974)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 28104)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14887)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17173)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22637)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28290)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 14033)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 17069)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22323)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14186)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21498)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20837)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28569)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 15077)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26619)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19305)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31648)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30678)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 21030)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26272)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23606)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25650)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25452)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19745)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18504)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17808)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 19078)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant