Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thập bát giới

07 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 7572)
Thập bát giới

SỨ MỆNH CỦA ĐẠO PHẬT

NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP TP. HỒ CHÍ MINH 2010

Thập bát giới

Thập bát giới (mười tám giới) là sự phân loại đối với những hiện tượng trong thế giới hữu tình, là quan niệm về vũ trụnhân sinh từ trí tuệ siêu xuất của Đức Phật. Đây cũng là pháp tu căn bản của Phật giáo, là con đường đưa đến Giải thoát - Niết bàn.

Mười tám giới gồm sáu căn, sáu trần và sáu thức. “Giới” nghĩa là giới hạn, vì mỗi yếu tố đều có một phạm vi hoạt độngảnh hưởng riêng biệt của nó. Sáu căn là Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) ở trong cơ thể con người, thuộc Nhân-Sinh-Quan của Phật giáo. Sáu trần là Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, những cảnh tượng bên ngoài, thuộc Vũ-Trụ-Quan của Phật giáo. Hệ thống kinh Nguyên thuỷ gọi sáu căn là sáu nội xứ, sáu trần là sáu ngoại xứ, cộng lại là mười hai xứ.

Mỗi căn tiếp xúc với một trần tương ứng, sinh ra thức: Mắt tiếp xúc với Sắc sinh Nhãn thức, khiến con người biết được hình dạng màu sắc của sự vật, rồi khởi niệm phân biệt đẹp xấu to nhỏ; Tai tiếp xúc với Âm thanh sinh Nhĩ thức, phân biệt khen chê hay dở… Năm căn đầu (mắt, tai mũi, lưỡi, thân) duyên với năm trần tương ứng (gọi là tiền trần), phát khởi năm thức có tên Tiền ngũ thức. Riêng pháp trần không phải có hình tướng cụ thể, chỉ do những bóng dáng của tiền trần lưu ảnh trong tàng thức, khi có cơ hội chợt trỗi dậy làm ta nhớ lại. Khi Ý căn tiếp xúc với pháp trần, Ý thức phát sinh. Nhà Phật rất chú trọng đến tâm ý, vì đây là động cơ chính tạo mọi nghiệp thiện ác. “Công vi thủ, tội vi khôi”. Lập công đầu là nhờ ý thức, nhưng tạo tội cũng khởi phát từ ý thức mà ra.

Cách phân loại theo mười tám giới cho chúng ta một nhận định đúng đắn về nhân sinhvũ trụ. Lìa Căn-Trần-Thức, không có cái gọi là chúng sinhthế giới. “Chúng” là sự tập hợp; “Sinh” là tạo ra, là phát khởi. “Chúng sinh” là vay mượn các duyên để sinh khởitồn tại một thân tâm. Đáo cùng, thân năm uẩn của chúng ta chỉ là duyên hợp giả có, nhưng chúng ta lại mê lầm chấp nó là thật, là ta. Do chấp có ngã (Ta)ngã sở (của ta) nên sinh ra đắm luyến thân, quay cuồng theo ngũ dục, đời đời kiếp kiếp trôi lăn trong sanh tử. Cho đến thế giới vũ trụ vô biên, cũng không ra ngoài lý duyên sinh. “Vũ” chỉ cho không gian, “Trụ” chỉ thời gian. Không gianthời gian thật ra chỉ là sản phẩm của vọng tưởng, do sự phân chia ước lệ của con người; không có cái gì không nhờ các duyên tụ hợp mà thành. Vì vạn pháp đều do duyên hợp nên không đồng nhất và không có chủ tể, luôn luôn biến đổi nên vô thường. Vì không có chủ tể, không đồng nhất và vô thường, nên chúng là Vô ngã đây là chân lý tuyệt đối mà chỉ có Đức Phật, bậc giác ngộ tối thượng mới thấu triệttuyên dương, khiến giáo lý nhà Phật như ánh sáng mặt trời soi thấu tất cả mọi bí mật ngàn đời trong tột cùng pháp giới.

Vì Căn và Trần đều không thật có, nên Thức, phát sinh từ sự giao thoa giữa Căn-Trần, cũng không thật. Như vậy, sự hiện hữu của Căn-Trần-Thức là sự giả có, do tâm biến hiện, còn tự tánh của chúng vốn là không. Cái có này không thật có vì tánh nó là không, cũng không thật không vì duyên hợp giả có, cho nên gọi là Chân KhôngDiệu Hữu. Quán chiếu sâu xa điều này, chúng ta sẽ thấu triệt tinh thần “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không” của Bồ tát Quán Tự Tại. Soi thấy năm uẩn đều không, nghĩa là soi thấy mười tám giới đều là tự tánh Không như thế. Nhận ra được chân không nhờ trí tuệ Bát Nhã, chúng ta sẽ tự tại với mọi biến đổi nhiễu nhương của đời sống, vẫn làm việc tích cựccon ngườicuộc đời nhưng không đắm luyến bất cứ thứ gì, nên vượt qua tất cả mọi khổ nạn. Đây là tiền đề giải thoát phiền nãosinh tử luân hồi.

Khi tôn giả Phú-Lâu-Na thỉnh Phật chỉ dạy pháp yếu tu hành, Phật đã bảo: “Chỉ cần sáu căn không dính mắc với sáu trần, ngay đó là giải thoát”. Kinh Lăng Nghiêm mô tả lời giải đáp cho nghi vấn của Ngài A-Nan, bằng lời dạy đồng thanh của mười phương chư Phật: “Nguồn gốc của trầm luân sanh tử là sáu căn của ông; nguồn gốc của Niết bàn giải thoát cũng là sáu căn của ông chứ không đâu khác”. Ngài Điều Ngự Giác Hoàng, Sơ tổ thiền tông Việt Nam Trúc Lâm Yên Tử cũng viết: “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”, tiếp xúc với cảnh mà tâm không khởi niệm, đó là thiền, không cần hỏi thêm chi nữa. Người đời khi mắt nhìn thấy sắc, liền khởi ý phân biệt đẹp xấu, đẹp thì thích, xấu thì không ưa, từ đó liên tưởng đến những chuyện khác. Vọng niệm cứ thế sinh diệt không dừng. Người biết tu, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng ... đều nhận rõ nhưng không có ý niệm phân biệt, chia chẽ, nên các căn không dính mắc với trần cảnh. Vì không dính mắc nên không tạo nghiệp, do đó thoát ly khỏi phiền nãosinh tử.

Nhiều người lầm tưởng, tu hành là phải trốn tránh thế gian, phải đè nén vọng tưởng, phải kiềm chế mọi nhu cầu của cơ thể. Thật ra, cấu tạo Tâm-Sinh-Vật lý là cấu tạo tự nhiên của con người. Cơ thể chúng ta có những nhu cầu cần thiết để tồn tại và phát triển. Quá nuông chiều thân xác, chạy theo những thú vui trần tục mà xa rời đạo lý, chỉ biết sống theo bản năng là một cực đoan không nên có. Nhưng quá khổ hạnh khiến cho thân thể hao mòn, tinh thần u mê trì trệ, là cực đoan thứ hai, cũng không hợp với đạo. Đức Phật không chủ trương bạo động, bắt đè nén thân xác hay trấn áp vọng tâm. Đối với thân, người tu khéo tuỳ duyên, vẫn ăn uống ngủ nghỉ, vẫn sống chan hòa cùng cuộc đời, chỉ không khởi niệm khen chê ưa ghét. Đối với tâm, người tu chỉ cần biết những tâm hành sanh diệt đều là vọng tưởng, không theo nó; vọng tưởng tự lặng là tâm được an. Sống hồn nhiên như vậy, tu nhẹ nhàng như vậy mà lại khế hợp với tự tánh.

Lại có người hiểu lầm, cho trạng thái vô tâm của nhà Thiền là hoàn toàn không còn “tâm” gì cả, hoàn toàn vắng bặt mọi ý nghĩ, bặt luôn cả thấy nghe hiểu biết. Thật ra tinh thần nhà Thiền là tinh thần trung đạo: Không đè nén vọng tưởng cũng không dung túng vọng tâm. “Vô tâm” là không khởi tâm phân biệt, tâm sinh diệt, nhưng bản tâm chân thật thanh tịnh chưa từng sinh diệt bao giờ. Ấy là chân tâm, là Phật tánh sẵn có, đầy đủ và bình đẳng ở muôn loài chúng sanh. Chúng sinhvô minh, cho thân-tâm-cảnh là thật có, nên tiếp xúc với sự vật bên ngoài bằng cái biết có phân biệt so sánh, đó là tâm tỷ lượngphi lượng. Sau đó khởi thêm một chuỗi những niệm khen, chê, ưa, ghét... càng lúc càng xa hẳn thực tại. Vì thế, tai có nghe mà không thấu, nhìn mà không thấy được lý chân thật của các pháp. Người biết tu, hàng ngày vẫn đối duyên xúc cảnh, tất cả đều biết nhưng không khởi niệm. Đây là trạng thái hiện lượng của tâm, biết bằng trực giác không qua trung gian suy luận. Các Ngài có cái nhìn thấu suốt được thực tướng của các pháp, thấy các pháp như nó đang là, nên không xâm phạm đến bản vị của chúng. Nếu chúng ta an trú tâm vào giờ phút hiện tại, không dong ruổi về quá khứ hay mơ màng đến tương lai, thì một thời điểm nào đó, các pháp sẽ vén mở sự bí mật ngàn đời. Bởi vì, khi tâm thanh tịnh, thế giới trở thành pháp giới, Ta Bà biến thành Tịnh Độ.

Xét đến tam vô lậu học (Giới-Định-Huệ), chúng ta thấy căn bản vẫn là sự tương quan giữa Căn-Trần-Thức. Giới được lập ra để ngăn không cho sáu căn dong ruổi theo sáu trần, như dây vàm buộc mũi trâu không cho ăn lúa mạ của người. Định là dứt bặt các duyên, không để tiền trần lưu ảnh phát sinh ý thức. Huệ là quán chiếu vào Căn-Trần-Thức, thấu triệt được tự tánh không của tất cả các pháp; từ đó thấm sâu vào lòng thực tại, thể nhập vào sự bình đẳng tuyệt đối giữa chúng sanh và chư Phật, giữa thế giới nhiễm ô phiền não với Tịnh Độ Niết Bàn.

Mười tám giới không chỉ là pháp số trong giáo lý Phật môn, mà còn là những nhận định đúng đắn về con ngườivũ trụ. Đó cũng là pháp tu, tuy đơn giản nhưng thành tựu thật phi thường. Chúng ta học và nghiên cứu lời Phật dạy, không phải để có một số vốn kiến thức suông về Phật pháp. Chúng ta phải áp dụng lời dạy của Đức Phật để tự hoàn thiện chính mình, để đi theo con đường Phật đã đi và đã đến đích, rồi góp phần của mình vào việc làm lợi ích cho người sau. Có như vậy, chúng ta mới làm đúng tinh thần học Phật và tu Phật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14847)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17773)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18205)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14971)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13169)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21128)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32548)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15293)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12337)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12827)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27468)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12126)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34910)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17727)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11802)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12637)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14562)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32446)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19450)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12965)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14079)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14262)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15309)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14134)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14119)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11947)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53135)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11649)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13913)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13806)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20671)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14308)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13428)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13605)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34139)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16204)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14066)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14192)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13547)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15891)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13499)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22944)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27716)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13891)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24926)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13940)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31305)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13856)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15553)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14952)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant