Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sứ mệnh của Đạo Phật

07 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 6667)
Sứ mệnh của Đạo Phật

SỨ MỆNH CỦA ĐẠO PHẬT

NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP TP. HỒ CHÍ MINH 2010

Sứ mệnh của Đạo Phật

I. Ý NGHĨA

Hiểu theo sự tướng, Đạo Phậtcon đường, là phương pháp tu hành đưa con người đến mục đích giác ngộgiải thoát. Giác ngộ đối nghĩa với vô minh, giải thoát đối nghĩa với trói buộc. Chúng sanh vô minh, chấp thân tâm là thật, chấp các pháp là thật nên dính mắc với trần cảnh; từ đó bị phiền não trói buộc, tạo nghiệp và quanh quẩn trong sáu đường sinh tử. Người tu khi giác ngộ thân tâm cảnh đều duyên hợp hư huyễn, các Ngài vẫn sống vẫn làm nhiều việc lợi ích cho đời, nhưng hoàn toàn tự do tự tại. Như thế, nhờ giác ngộ nên giải thoát - giải thoát khỏi phiền nãocuối cùng, khỏi luân hồi. Đạo Phật được ví như ngọn đuốc soi đường cho những kẻ còn lạc lối trong rừng rậm vô minh, hoặc như chiếc thuyền đưa người qua biển khổ, đến bến bờ an lạc.

Hiểu theo lý tánh, Đạo Phật là tánh giác sẵn đủ ở mỗi chúng sanh. Tánh giác là thể chẳng sanh chẳng diệt ở ngay thân ngũ uẩn sanh diệt. Chư Phật đã nhận ra và hằng sống với tánh giác chân thường, chúng sanh cũng có tánh giác nhưng bị phiền não tham sân si che lấp, như vàng trong quặng, như sóng chìm nổi trên mặt biển. Thể tĩnh lặng của biển luôn hiện hữu trong tướng biến động của sóng. Do có gió nên mặt biển nổi sóng, và khi gió lặng, sóng lại trở về với biển cả mênh mông. Cũng vậy, chúng sanh đang trong thể tánh tịch chiếu của biển chân như, do gió nghiệp thổi mà sinh ra thân năm uẩn, theo đó tiếp tục tạo nghiệp rồi thọ thân mãi mãi không cùng. Hơn thế, chúng sanh lại quên thể tánh hằng tri mà nhận lầm tâm huyễn hóa là mình, như người nhận sóng mà quên nước. Muốn trở về nước, phải ngay nơi sóng mà nhận; muốn trở về tánh giác chân thường, phải ngay từ thân tâm vô thường. Tâm thức mê mờ của phàm phu rất gần với tâm Bồ-đề của các Bậc Giác Ngộ, chỉ cách nhau ở một niệm quên hay nhớ mà thôi.

Chúng sanh quên tánh giác vì mãi chạy theo thức tình phân biệt, theo vọng tưởng điên đảo. Ví như mặt hồ có sóng lớn, ánh trăng không hiện rõ trong nước; nhưng khi gió lặng, mặt nước yên tĩnh, bóng trăng sẽ hiện sáng ngời. Chúng ta tu là làm lặng yên gió niệm phân biệt. Niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, thiền tập đến trạng thái tịch lặng và thường rõ biết, người tu nhận ra Niết bàn tự tánh ở ngay đương xứ - bây giờở đây.

Như ta thấy, Đạo Phật không hề có những biểu hiện thần quyền hoặc chủ trương những hình thức mê tín dị đoan. Đức Phật là Bậc Đạo Sư tức vị Thầy dẫn đường, không phải là thần linh ban phước giáng họa. Chúng sanh có quyền chọn lựa đường hướng cho mình, hoặc đi theo Đức Phật thì sẽ được an lạc giải thoát như Ngài, hoặc quay lưng theo hướng khác thì cũng có quyền tạo nghiệp và tự thọ nhận quả báo tương ứng. Chính Đạo Phật đã trao cho tất cả chúng sanh quyền tự do và quyền bình đẳng tuyệt đối khi vị Giáo chủ nhiều lần tuyên bố: “Chúng sanh là chủ nhân của nghiệp, cũng là chủ thọ nhận nghiệp báo” “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”.

II. LÝ THUYẾT

Giáo lý nhà Phật gồm tam tạng kinh điển (Kinh-Luật-Luận), là cả một gia tài đồ sộ. Kinh là những lời dạy của Đức Phật thuyết giảng hoặc do các đệ tử của Ngài tuyên thuyết và được Ngài ấn chứng. Luật là những cấm giới do Đức Phật chế ra để ngăn dứt điều ác, phát triển nghiệp lành. Thời kỳ Đức Phật còn tại thế chưa có chữ viết chỉ truyền khẩu, nên dần dần không thể không có những điều sai lạc. Đến nay một số giáo điều do người sau đặt ra nhưng lại ngụy tạo lời Phật dạy; hoặc ngược lại, có người chủ trương sai lầm cho rằng kinh điển Đại thừa không phải do Đức Phật thuyết giảng. Điều này làm nhiều Phật tử hoang mang không biết tin vào đâu, thậm chí rơi vào tà kiến mê tín. Vì thế, nhà Phật có một thước đo để phân định pháp nào là đúng chánh pháp. Thước đo ấy gọi là Pháp ấn.

“Ấn” nghĩa đencon dấu, dùng chứng thực uy quyền của vua quan. “Pháp ấn”con dấu của Đức Phật, dùng để chứng thực đâu là giáo lý từ kim khẩu Đức Phật thuyết ra. Với trí tuệ vô sư xuất thế, Đức Phật đã khám phá ra chân lý tuyệt đối chi phối cả vũ trụ vạn hữu cùng những phương pháp đoạn tận phiền não, thoát ly sinh tử. Trong suốt cuộc đời hoằng hóa độ sanh, Ngài đều chỉ dạy cho đệ tử theo tinh thần này. Và do vậy, nếu có một lý thuyết nào không mang được ý nghĩa như thế, thì đó không phải là lời dạy của Đức Phật.

Pháp ấn gồm ba phân loại:

- Tứ pháp ấn.

- Tam pháp ấn.

- Nhất pháp ấn.

* Tứ pháp ấn

1. Vô thường: Tất cả mọi loài vật, từ hữu tình đến vô tình, từ lớn lao như toàn thể vũ trụ đến tí hon như những tế bào đều thay đổi trong từng sát-na. Con người vô thường theo tiến trình sinh lão bệnh tử, các pháp có sinh trụ dị diệt, vũ trụthành trụ hoại không.

2. Khổ:vô thường nên không một chúng sinh nào thoát khỏi đau khổ, trong đó nỗi khổ luân hồi là đệ nhất. Cụ thể hơn, Đức Phật dạy rõ về tám loại khổ: Sanh - Già - Bệnh - Chết - Cầu mong không toại nguyện - Thương yêu phải xa lìa - Oán thù mà gặp gỡ - Thân năm ấm lẫy lừng.

3. Không: Các pháp đều do nhân duyên tập hợp mà hình thành, không có pháp nào tự nó hiện hữu. Vì do duyên hợp nên sự hiện hữu ấy chỉ là giả tạm, thật sự bản chất của các pháp là không. “Không”thể tánh cả vạn pháp, còn hiện tượnggiả có.

4. Vô ngã: Vì các pháp do duyên hợp nên không đồng nhất và không có một chủ thể độc lập. Các pháp cũng vô thường nên không phải cố định. Không có chủ tể, không đồng nhất và không cố định nên các pháp đều vô ngã.

* Tam pháp ấn

1. Chư hành vô thường: Đã nói ở trên.

2. Chư pháp vô ngã: Vô thườngVô ngã là hai pháp ấn thuộc Tục đế, là chân lý chi phối mọi sự vật hiện tượngvạn hữu trong cả ba cõi.

3. Niết bàn tịch tịnh: Pháp ấn thứ ba thuộc Chân đế, là chân lý xuất thế gian. Hai đặc tính của Niết bànthanh tịnh và thường tri, tức tĩnh lặng mà hằng rõ biết. Niết bàn không phải là một cõi giới bên ngoài, có thể đạt đến khi nhắm mắt lìa đời, mà là tự tánh bổn tịch bổn tri của chính mình. Khi nhận rathẩm thấu chân lý vô thường vô ngã của muôn pháp, người tu thoát ly mọi khổ não, xoay lại soi sáng chính mình, trở về Niết bàn tịch tịnh tự tâm.

* Nhất pháp ấn

Khi nhận thấy trình độ tâm linh của chư đệ tử đã có thể lãnh hội chân lý tối thượng, Đức Phật mới thuyết giảng về Nhất tâm chân như, thuộc Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế, chỉ rõ con người chân thật thường hằng ở mọi chúng sanh. Con người chân thật ấy không có hình dáng nên không hề sanh diệt, không có tên nên được đặt rất nhiều tên: Chân như, Phật tánh, Pháp thân, Bản lai diện mục… Trở về hằng sống với con người chân thậtmục đích cuối cùng của người tu, và cũng là bản hoài chư Phật khi thị hiện nơi đời.

Như ta đã thấy, không có lời dạy nào của Đức Phật đề cập đến việc giải trừ sao hạn, coi hướng, coi quẻ, cùng những hình thức cúng tế thuộc tín ngưỡng dân gian. Mặt khác, giáo lý nhà Phật cũng không phải là một nền Triết học. Triết học nằm trong phạm vi của Hữu sư trí, trí tuệ có được nhờ học hỏi thu lượm từ bên ngoài, từ người khác. Trái lại, Phật pháp được tuyên thuyết bằng Vô sư trí của một Bậc Giác ngộ, tức trí tuệ phát sinh trong thiền định, khi tâm hoàn toàn vắng bặt mọi vọng tưởng phân biệt đảo điên. Đức Phật không nói những gì Ngài suy đoán, mà chỉ nói những gì Ngài đã thấy rõ bằng Tuệ nhãn, Pháp nhãnPhật nhãn. Chính vì thế giáo lý nhà Phật là sự thật muôn đời không thay đổi, là chân lý siêu việt cả không gianthời gian.

III. THỰC HÀNH

Lý thuyết như đôi mắt sáng, thực hành như đôi chân khỏe. Muốn đến nơi đến chốn, con người phải có mắt sáng để thấy đường đi và chân khỏe để tiến bước. Mắt và chân là hai điều kiện chủ yếu, tiên quyết và không thể thiếu cho một kẻ lữ hành.

Người Phật tử là một hành giả tâm linh, muốn trở về quê hương muôn thuở thì cần áp dụng giáo lý vào thực hành. Thực hànhchuyển hóa ba nghiệp thân miệng ý, chuyển hóa tự tâm. Tùy căn cơ, trình độsở thích, mỗi người tự chọn cho mình một pháp môn thích hợp. Đức Phật là vị Đại lương y, có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn đối trị tám vạn bốn ngàn trần lao phiền não. Chúng ta như những bệnh nhân, đã được chẩn đoán cho toa, phải uống thuốc đúng theo lời dặn trong toa mới mong khỏi bệnh phiền não.

Một chai trước chứa thuốc độc, nếu muốn sử dụng nó chứa mật ong, đầu tiên ta phải đổ hết thuốc độc ra, súc rửa nhiều lần cho thật sạch. Tâm trí ta cũng thế, ba độc tham sân si đã huân tập bao nhiêu đời kiếp. Nếu muốn chứa vị cam lồ giải thoát, trước hết phải tẩy sạch phiền não vô minh. Tịnh tu ba nghiệp, dần dần dừng nghiệp và sạch nghiệp. Không còn nghiệp tức động cơ sinh tử đã ngừng, vòng xích luân hồi bị chặt đứt.

Phương pháp tu hành theo Đạo Phật được phân chia thành Ngũ thừa, Tam thừaNhất thừa Phật giáo.

* Ngũ thừa Phật giáo

1. Nhân thừa: Người Phật tử quy y tam bảo, giữ gìn năm giới. Đời sau, người ấy trở lại thân người với mọi điều tốt đẹp.

2. Thiên thừa: Tu mười điều thiện, lánh xa mười nghiệp ác, thác sinh về cõi trời Dục giới.

3. Thinh văn thừa: Tu Tứ Diệu Đế, chứng quả vị Thinh văn (Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán)

4. Duyên giác thừa: Tu Thập nhị nhân duyên, quán lý Duyên sinh, giác ngộ bản chất duyên hợp của vũ trụ vạn hữu. Chứng quả vị Duyên giác.

5. Bồ tát thừa: Tu lục độ vạn hạnh. Hành giả thực hành tự độ độ tha, đạt đến cứu cánh Nhất thừa Phật đạo.

* Tam thừa Phật giáo

Chỉ kể Thinh văn, Duyên giácBồ tát thừa.

* Nhất thừa Phật giáo

Kinh Pháp Hoa có một ví dụ về “Hội tam quy nhất”, tức quy Tam thừa về Nhất thừa. Những người con mãi vui chơi trong nhà lửa, không biết từng giây phút bị lửa đe dọa tính mạng. Người cha muốn các con mau ra khỏi nhà lửa, nên lập bày phương tiện, hứa cho các con ba loại xe. Nếu ai ra khỏi nhà, sẽ được sử dụng các loại xe ấy, mặc tình rong chơi thỏa thích. Khi các con đã an toàn, người cha mới nói thật rằng, không có ba loại xe mà chỉ có duy nhấtxe trâu trắng. Ba loại xe ví như Tam thừa (Thinh văn, Duyên giác, Bồ tát), xe trâu trắng là Phật thừa. Các quả vị của Tam thừa chỉ là Hóa thành, để chúng đệ tử có cơ sở tiến đạo và không cảm thấy ngao ngán vì đường tu xa xôi diệu vợi. Thật sự chỉ có quả vị duy nhấtPhật quả, là Bảo sở, là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng là Niết bàn tự tâm ở ngay tại đây bây giờ!

IV. SỨ MỆNH TRUYỀN BÁ

Sau khi thành đạo dưới cội Tất-bát-la, Đức Bổn Sư định nhập Niết bàn, vì những gì Ngài thấy được chứng được đều khó tin khó hiểu; nếu người nghe sinh tâm nghi ngờ phỉ báng, sẽ vô tình tạo trọng tội. Nhưng do chư Thiên ba phen khẩn thiết thỉnh chuyển pháp luân, nên Đức Phật đành dùng phương tiện, tùy duyên giáo hóa. Sứ mệnh truyền bá của Đức Phật lúc còn tại thế được chia làm năm thời kỳ. Đưa dần trình độ của chư vị đệ tử từ thấp lên cao. Không kể 21 ngày đầu tiên thuyết kinh Hoa Nghiêm cho các hàng Bồ tát, 4 thời kỳ hoằng pháp của Đức Phật gồm có([i]):

1. Phật thuyết kinh A-Hàm: Trong 12 năm, chỉ dạy mọi phương tiên tự tu tự độ.

2. Kinh Phương Đẳng: Giai đoạn chuyển tiếp từ Tiểu thừa lên Đại thừa, vừa tự độ vừa độ tha. Phật thuyết trong 8 năm.

3. Kinh Bát-Nhã: Thời kỳ này dài nhất, 22 năm, Đức Phật dạy về Tánh Không của vũ trụ vạn loại, về Thật Tướng Vô Tướng của tất cả các pháp.

4. Kinh Pháp Hoa, Niết bàn: Trong 8 năm cuối đời, Đức Phật thấy căn cơ của chư đệ tử đã thuần thục, có thể đảm đương việc lớn là “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” nên tỏ bày lý nghĩa rốt ráo, từ Tam thừa về Nhất thừa, từ Hóa thành đưa về Bảo sở. Để gieo niềm tin vững chắc cho hội chúng, Ngài đã thọ ký cho các đệ tử, không kể người trí hay ngu, nam hay nữ, hiền thiện hay xấu ác, thậm chí đến kẻ tạo tội ngũ nghịch như Đề-Bà-Đạt-Đa hoặc súc sinh nhỏ tuổi như Long nữ, cũng đều có khả năng thành Phật. Đúng như lời Bồ tát Thường Bất Khinh: “Tôi không dám khinh các người, vì các người đều sẽ thành Phật!”.

Chúng ta ngày nay, có nhân duyên lớn gặp được chánh pháp, học hiểu và tu hành có kết quả, nên tích cực truyền bá giáo lý của Đức Phật để người khác cũng được lợi lạc, để Phật pháp mãi mãi trường tồn. Tùy khả năng tu họchoàn cảnh mình đang sống, chúng ta có thể bằng khẩu giáo hay thân giáo góp phần làm tốt đời đẹp đạo. Tuy nhiên, việc truyền bá cần theo tinh thần khế lý khế cơ hay bất biến tùy duyên. Khế lý là phù hợp với chân lý bất biến của nhân sinh vũ trụ, khế cơphù hợp với căn cơthời đạitùy nghi sử dụng phương tiện, để ai cũng có thể thấm nhuần và tu tiến. Người truyền bá Phật pháp lúc nào cũng linh động nhưng không bao giờ nói sai chân lý. Nhưng ngược lại, nếu nói đúng với chân lý mà không thích hợp với thính chúng thì cũng khó thuyết phục, khó đưa chánh pháp thấm sâu vào lòng người, khó giúp đương sự tu hành có kết quả. Ví dụ, người Đông phương thường sống với nội tâm, nhịp sống chậm rãi nên thường ưa thích những pháp môn thâm sâu, có căn bản hoặc tuần tự từ thấp lên cao. Người Tây phương lại khác, quen với nhịp điệu hối hả, mong có kết quả nhanh chóng nên thích hợp với các phương pháp làm giảm căng thẳng thần kinh hoặc giúp an lạc ngay trong hiện đời. Những người sơ cơ chưa hiểu sâu giáo lý thường ưa nghe về tội phước, nhân quả, nghiệp báo… Người có trình độ nghiên cứu cao hơn lại rất tâm đắc về những đề tài Vô thường, Vô ngã, Duyên sinh… Đặc biệt, đối với những Phật tử vừa uyên thâm giáo lý vừa có công phu tu hành chuyên sâu, đây là mảnh đất tâm trù phú để gieo chủng tử vô lậu, là những người có thể gánh vác trọng trách tự lợi lợi tha, tự giác giác tha.

* *

*

Thuyền bè hay ngọn đuốc sáng là cứu tinh cho những người sắp chết đuối hoặc đang bị lạc vào rừng rậm thâm u. Nhưng nếu lên thuyền mà không chèo, có đuốc soi đường mà không đi, thì biết bao giờ thoát nạn? Giáo lý nhà Phật thậm thâm vi diệu, muôn kiếp khó tìm, chúng ta được nghe và hiểu đúng Phật pháp là điều hy hữu. Đã có duyên sâu dày, chúng ta càng nên nỗ lực tu hành, tùy duyên theo hoàn cảnh riêng. Bao nhiêu sóng gió trở ngại trong đời, ta kham nhẫn chịu đựng rồi yên ổn vượt qua, vì ta đã có hướng đi, có mục đích cao cảchuyển hóa bản thân, xây dựng gia đình hạnh phúc và góp sức cải thiện xã hội. Bằng những việc cụ thể làm lợi mình lợi người như thế, chung ta đã biết đền ơn chư Phật một cách thiết thực và đầy đủ ý nghĩa.



Ghi chú:

[i] Theo HT. Thích Thiện Hoa - Phật học phổ thông Khóa I


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14875)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17804)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18218)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14995)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13192)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21168)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32591)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15321)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12350)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12836)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27532)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12138)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34968)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17752)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11828)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12651)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14571)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32473)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19462)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12971)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14087)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14272)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15318)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14145)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14136)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11959)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53181)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11665)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13927)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13822)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20696)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14313)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13434)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13619)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34178)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16211)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14073)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14203)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13567)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15920)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13517)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22980)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27748)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13906)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24978)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13954)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31335)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13867)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15563)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14980)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant