Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vô ngã

07 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8363)
Vô ngã

SỨ MỆNH CỦA ĐẠO PHẬT

NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP TP. HỒ CHÍ MINH 2010

Vô ngã

­

Có thể nói, Phật giáo là một tôn giáo độc nhất trong lịch sử nhân loại đã phủ nhận sự hiện hữu của một cái Ngã - linh hồn hay cái tôi - Phật thuyết minh vô ngã bằng thực chứng của chính Ngài. Kết quả đã đẩy lùi ý niệm sai lầm về Hữu ngã đang thống trị nơi các luồng tư tưởng, triết họctôn giáo đương thời.

Khi thuyết này vừa khởi xướng thì các nhà lãnh đạo tư tưởng có sự phản ứng mạnh, vì rằng đã làm chấn động và đi ngược lại với truyền thống cố hữu. Nhưng bất chấp mọi cản trở, ánh sáng của duyên sinh vô ngã đã từng bước đi vào lòng người vì tính trong sáng và như thực bản lai của nó. Nhìn chung, trong toàn bộ lời dạy của Đức Phật đối với hoàn cảnh lịch sử mà Ngài xuất hiện, quả thật Ngài là một nhà cách mạng văn hóa tư tưởng vĩ đại.

Rải rác đó đây trong các Kinh A-hàm cho biết, có tất cả 62 loại kiến chấp thịnh hànhquảng bá, làm cho người đương thời hoang mang không biết chỗ quy hướng. Trong 62 phân loại trên, tựu trung có hai loại kiến chấp cơ bản đó là Đoạn kiếnThường kiến. Đoạn kiến cho rằng chết là kết thúc và tiêu mất vào hư không, sau khi chếttuyệt diệt. Thường kiến thì cố tình xây dựng nên một cái Ngã (linh hồn), vĩnh viễn đời đời không có sự thay đổi, trước sau như một, thường tại bất biến. Với Thánh trí tự giác, Đức Phật bác bỏ hai luận điểm trên, và cho rằng đều rơi vào cực đoan thiên kiến. Chấp đoạn, chấp thường đều là biểu hiện của ngã tướng. Cái ý tưởng “tôi hiện hữu” là con đẻ của ngã tướng. Cái ý tưởng “tôi không hiện hữu” là con đẻ của ngã tướng, cho đến ý tưởng “tôi thành, tôi đạt, tôi đắc, tôi không còn, tôi tiêu mất...” cũng vẫn còn là hành vi của ngã tướng. Chấp ngã là nguồn cội của mọi khổ đau, khi nào ý thức chấp ngã còn hoạt động trong đời sống nội tâm, khi ấy sự khổ vẫn còn đeo đuổi chúng ta qua các kiếp sống.

Nếu thật là Ngã phải đủ ba yếu tố: chủ tể, bất biến và đồng nhất. Ai cũng muốn thân thể đừng bệnh hoạn, già nua và chết chóc, ước muốn ấy không thành tức là thân này không có chủ tể. Ai cũng muốn trẻ mãi không già, nhưng trong tự thân cứ thay đổi biến hóa thường xuyên, thế là thân này không được bất biến. Thân này nhờ vay mượn các duyên giả hợp mà thành, thế là thân này không mang tính đồng nhất. Như vậy, thân này không có chủ tể, bất biến và đồng nhất nên không có Ngã, vì nhầm lẫn có một cái Ngã nên gọi là chúng sanh. Cái ảo tưởng về Ngã không còn thì gọi là Thánh, Bồ tát, Phật. Chính cái tư duy hữu ngã mà con người trở thành tạo vật khổ đau và đóng bít con đường đi đến Niết bàn.

Chính vô minhdục vọng xây dựng nên cái Ngã, và cũng do ý tưởng sai lầm này mà vô minhdục vọng phát sinh. Cho đến mọi tranh chấp giữa cá nhân và chiến tranh giữa các dân tộc cũng đều có gốc rễ từ ý tưởng sai lầm về Ngã. Cái ngã cá nhân, cái ngã gia đình, cái ngã xã hội thực ra cũng là một sai lầm. Phật nói vô ngã giúp chúng sanh thoát khổ, và vì vậy mà Ngài được tôn xưng là Đấng cứu khổ. Sự chấp ngã đi theo chúng sanh qua các kiếp sống như hình với bóng. Vì muốn chúng sanh hết khổ mà Phật quyền nói vô ngã, cũng vì thế Đạo Phật mang danh Ngài là Đạo vô ngã. Lý thuyết vô ngã là kết quả tất nhiên do khám phá Ngũ uẩn và Mười hai nhơn duyên.

Không có một sự vật nào hiện hữu mà không do duyên sinh, vì duyên sinh nên chỉ tìm thấy sự tương thuộc lẫn nhau, nương tựa nhau mà tồn tại. Tất cả pháp chỉthể hiện hữu trong tương đối, giới hạnphụ thuộc lẫn nhau. Muôn vật đủ duyên thì hiện, không đủ duyên thì ẩn tàng, trong đó không có sự mất hẳn (đoạn diệt), cũng không có yếu tố cố định (thường hằng). Duyên sinh vô ngã là nguyên lý bản chất của Đạo Phật, và cũng là nền tảng đạo đức cá nhânxã hội. Khi chưa quán thông vô ngã thì mọi việc làm cũng chỉ nhằm để củng cố cái tôi ích kỷ, cũng vì thế mà trở thành hời hợt và không một chút thâm tình nào thể hiện vào cuộc đời.

Duyên sinh là chỉ cho một hợp thể gồm nhiều yếu tố nương tựa nhau, quan hệ mật thiếtphụ thuộc lẫn nhautồn tại. Không có một sự vật nào hiện hữu một cách độc lập mà không liên hệ đến các sự vật khác, nên vốn “Không”, nhưng không có nghĩa là không ngoa, mà không có tánh đồng nhất, không có tánh cố định.

Trong Trung Luận thuộc phẩm Tứ Đế, Bồ tát Long Thọ nói:

“Chưa từng có một pháp, không từ nhân duyên sanh

Thế nên tất cả pháp, thảy đều là không vậy”([i]).

Các pháp do duyên sanh nên vô tánh, vô tánhduyên sinh. Đứng về phương diện duyên sinh thì chỉ là hiện tượng hữu sinh hữu diệt và phụ thuộc tồn tại, nhưng nói về phương diện vô ngã thì chỉ cho kết quả do thắp sáng mọi hiện hữu đều là duyên sinh, có thể nói vô ngãbản thể của tất cả mọi hiện tượng (vật lý, sinh lýtâm lý).

Không thể có một bông hoa tồn tại mà không cần đến ánh sáng mặt trời, không khí, đất, nước, phân bón... vậy nên sự hiện hữu của bông hoa là sự hiện hữu của vũ trụ. Thân năm uẩn cấu thành một chúng sanh này, cho đến tất cả pháp cùng một quy luật. Tất cả pháp tuy có thiên hình vạn trạng nhưng đều nằm trong cái luật chung đó, và đó là nghĩa bình đẳng của tất cả pháp. Có pháp nào không là duyên sinh, mà đã là duyên sinh thì toàn thểvô ngã. Không thể xa rời các hiện tượng duyên sinh mà thấy được cái lý pháp thường hằng. Phật dạy:

“Ai thấy được duyên sinh là thấy được pháp.

Ai thấy được pháp là thấy được duyên sinh”.

Mãi cho đến thời hiện đại này, thuyết duyên sinh vô ngã vẫn không bị xem là lỗi thời; ngược lại, tính thuyết phục của nó đã cuốn hút và gây sức chú ý đối với các nhà vật lý học hiện đại một cách hấp dẫn. Về mặt khoa học, duyên sinh vô ngã soi sáng bản chất như thực của mọi hiện hữu.

“Chư pháp tùng duyên sinh, diệc tùng nhân duyên diệt” thực tại mang tính phổ biến, nó chi phối tất cả mọi hữu thể tồn tại. Nhờ chuyển động liên tụcgiả hợp mà các pháp hiện hữu. Các pháp không thể tồn tại một cách độc lập, mà tồn tại nhờ phụ thuộc lẫn nhau.

Cội gốc đau khổ không phải là năm uẩn, mà là “chấp thủ” vào năm uẩn, “khát ái” với năm uẩn, “vô minh” đối với năm uẩn. Hễ có chấp ngã là còn tạo nghiệp, còn tạo nghiệp là còn thọ khổ, cho nên gốc của khổ là nằm ở chỗ chấp ngã vậy. Đạo Phật được mệnh danh là Đạo phá chấp, là Đạo vô ngã cũng từ ý đó. Đây là lời dạy của bậc Đạo sư về đạo lý này:

“Sắc, này các Tỳ kheo, là vô ngã, quá khứ, vị lai, còn nói gì đến hiện tại, vị đa văn Thánh đệ tử đối với sắc quá khứ không tiếc nuối, đối với sắc vị lai không hoan hỷ, đối với sắc hiện tại hướng đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt”.

“Thọ là vô ngã... tưởng là vô ngã... hành là vô ngã... thức là vô ngã...”([ii])

Và đây là những lời dạy tiếp theo ý này:

“Sắc, này các Tỳ kheo, là vô ngã. Cái gì là nhân, cái gì là duyên do sắc sanh khởi, cái ấy cũng vô ngã. Sắc đã được cái vô ngã làm cho sanh khởi thì từ đâu là ngã được...”

“Thọ là vô ngã... tưởng là vô ngã... hành là vô ngã... thức là vô ngã...”([iii])

Cái bi kịch của kiếp người không do một định mệnh khắt khe nào, không do một Đấng sáng thế nào áp đặt mà chính do con người tự đày đọa mình trong vòng vô minh của ngã chấp. Và đây là minh chứng qua lời bậc Đạo sư dạy:

“Ví như, này các Tỳ kheo, có con chó bị dây thừng trói chặt vào một cây cột, hay cột trụ vững chắc, nó chạy vòng theo, chạy tròn xung quanh cây cột, hay cây cột trụ ấy. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, kẻ vô văn phàm phu không thấy các bậc Thánh... không thấy các bậc chân nhân... quán sắc, thọ, tưởng, hành, thức như là tự ngã... nó chạy vòng theo, chạy tròn xung quanh sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Vì rằng nó chạy vòng theo, nên nó không giải thoát khỏi sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không giải thoát khỏi sanh, già, sầu, bi, khổ, ưu não. Ta tuyên bố: Không giải thoát khổ đau”([iv])

Duyên sinh vô ngã thuộc yếu tố không gian, nói lên sự giả hợp của tất cả pháp. Ấy là cái thấy của Phật ở trong thiền định, chứ không phải cái biết thuộc tư duy hữu ngã của phàm phu, vốn đầy ắp ngã tính. Cái ánh giác phát sinh sau 49 ngày miệt mài thiền định nói lên hùng lực rất cần phải có trên con đường tầm cầu sự giải thoát tối thượng. Không thể đem kiến thức học hiểu hời hợt bằng lối tư duy phân biệt của trí năng mà có thể quán triệt được vô ngã. Trong Kinh A Hàm, Phật quở ngài A Nan, đủ chứng tỏ chỗ thậm thâm của đạo lý này:

“Này A Nan! Đừng nói thế, đừng nói thế! Giáo lý duyên khởi này là sâu xa và rất sâu xa. Chính vì không hiểu rõ, không thâm nhập giáo lý này mà nhân loại trở nên như một cuộn chỉ rối rắm, như một ổ kén, rồi như cỏ babaja, không thể thoát ly khỏi khổ sứ, ác thú, địa ngục và sanh tử”.

chấp có một cái Ngã (linh hồn) đã ăn sâu vào tiềm thức, nên vào thời đại của Phật, những người nghe đến vô ngã liền đâm ra kinh hoàng khiếp sợ. Phật dạy:

“Hỡi các thầy Tỳ kheo, ý tưởng rằng: Ta có thể không còn tồn tại nữa (vô ngã), không còn gì nữa làm cho những người ngu lo sợ”.

Thế mới biết vào thời Phật, các luồng tư tưởng triết họctôn giáo đương thời xây dựng nên cái trục “Hữu ngã” đã ăn sâu vào lòng người biết đến ngần nào!

Thực tại là cái gì vừa biểu hiện vừa ẩn tàng. Biểu hiện đó là duyên sinh, ẩn tàng đó là vô ngã; biểu hiện đó là sự hữu, ẩn tàng đó là sự vô; biểu hiện đó là sự sống, ẩn tàng đó là sự chết. Nếu chỉ nhận một mặt này mà quên mất mặt kia của thực tại, đó là thiên kiến. Người dung thông thấy rằng hai mặt đều cùng một thể bình đẳng, bất khả phân ly (như sóng và nước).

Cái sai lầm căn bản của khoa học hiện đại là phân ranh thực tại thành những đối thể: Năng và sở, chủ và khách, trong và ngoài, người biết và đối tượng biết, người nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu. Tách con người ra khỏi những hiện tượng thiên nhiên là một minh chứng. Vì thấy con người khác với thiên nhiên nên mới dùng khoa học chinh phục thiên nhiên, bắt thiên nhiên chiều theo tánh dục của con người để thỏa mãn lòng tham vọng vô bờ bến. Cái kết quả tất nhiên là thiên nhiên nổi loạn như đã chứng kiến trong những thập niên gần đây. Thực ra thân năm uẩn cũng là hiện tượng thiên nhiên như tất cả mọi hiện tượng thiên nhiên khác. Con ngườithiên nhiên là một, là nhất thể bình đẳng. Hãy trân quý thiên nhiên như trân quý bản thân mình, đó là lời kêu gọi tha thiết của các nhà Đạo học Đông phương. Những lời Phật dạy mang tính tùy duyên nên chỉ là phương tiện nhất thời, vốn không có thật pháp có thể nương tựa. Tự tính vốn rỗng rang như hư không, vượt ngoài mọi đối đãi nhị biên, tùy duyênứng hiện.



[i] “Vị tằng hữu nhất pháp, bất tùng nhân duyên sanh / Thị cố nhất thiết pháp, vô bất thị không dã”.

[ii] Tương Ưng 3 - Ba thời là Vô ngã - 24

[iii] Tương Ưng 3 - Ba thời là Vô ngã - 28

[iv] Tương Ưng 3 - Dây thừng - 178


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14875)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17805)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18221)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14998)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13193)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21168)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32593)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15322)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12350)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12837)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27535)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12138)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34969)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17753)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11828)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12651)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14571)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32475)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19462)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12972)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14088)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14272)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15318)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14145)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14136)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11959)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53183)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11666)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13927)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13822)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20696)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14313)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13435)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13619)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34181)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16211)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14073)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14204)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13567)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15922)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13517)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22982)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27748)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13908)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24978)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13954)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31336)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13867)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15563)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14980)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant