Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trí tuệ trong Đạo Phật

07 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 6687)
Trí tuệ trong Đạo Phật

SỨ MỆNH CỦA ĐẠO PHẬT

NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP TP. HỒ CHÍ MINH 2010

Trí tuệ trong Đạo Phật

Sau năm năm học đạo cùng các vị tiên nhân và sáu năm khổ hạnh, Sa-môn Cồ-Đàm vẫn chưa tìm ra phương pháp thoát ly sinh tử. Ngài biết đạo không thể cầu bên ngoài, nên quyết định tự mình phăng tìm tận nguồn tâm của chính mình. Bốn mươi chín ngày đêm thiền định dưới cội cây Tất-bát-la là thời gian Ngài quay về cội nguồn, soi sáng tận những ngõ ngách sâu kín của tự tâm. Và khi mọi vọng niệm bặt dứt, mọi lậu hoặc vi tế đoạn trừ, Ngài hoát nhiên đại ngộ vào đêm cuối cùng, khi sao Mai vừa mọc.

Một nhà bác học đã thừa nhận: “Điểm tận cùng của khoa học chỉ là mức khởi đầu của Phật giáo”. Đạo Phậtđạo trí tuệ, vì vị Giáo chủ đã tỏ ngộ chân lý tuyệt đối và giảng dạy cho đồ chúng những gì Ngài biết bằng trí tuệ siêu xuất của mình. Nền khoa học cách đây 25 thế kỷ vẫn còn sơ khai, con người chưa có kính hiển vi hay viễn vọng, cũng chưa có phi thuyền không gian, thế mà Đức Phật đã biết trong ly nước có vô số vi trùng, trong vũ trụhằng sa thế giới. Những lời dạy của Ngài về vũ trụ nhân sinh, cho đến nay vẫn là chân lý; và khoa học càng tiến bộ, càng chứng minh sự đúng đắn của mọi điều Ngài tuyên thuyết. Trí tuệ ấy do đâu mà có? - Chỉ do sức thiền định sâu xa, tự nơi mình mà khám phá. Trí tuệ ấy cũng sẵn có trong tất cả chúng sanh, chỉ vì vô minh che lấp nên mãi chịu kiếp đọa đày trong trần lao sinh tử, như mặt trăng luôn hiện hữu trên trời không, vì mây phủ che nên dưới đất bị bao trùm trong bóng tối.

Nhưng làm thế nào mà mây tan trăng hiện?

Nhà Phật phân biệt hai loại trí tuệ, như là kết quả của hai giai đoạn hành trì: Một là Trí hữu sư, kiến thức tích lũy qua quá trình nghe, suy tư và tu theo lời dạy của Thiện hữu tri thức (Văn-Tư-Tu huệ). Hai là Trí vô sư, tức trí tuệ sẵn có nơi nguồn tâm, hoặc trí tuệ tự mình phát khởi do nghiêm trì giới luật và tâm an định (Giới-Định-Huệ). Văn-Tư-Tu được gọi là Tam huệ học, Giới-Định-Huệ gọi là Tam vô lậu học.

 1. Tam huệ học

Khi nghe thuyết pháp hay đọc kinh sách, có lúc ta chợt hiểu ra nhiều vấn đềxưa nay ta chưa hề hiểu, hoặc có lưu tâm nhưng mờ mịt không rõ căn nguyên. Như nhìn hoa nở rồi tàn, cảnh hợp rồi tan, người sinh rồi tử; cho đến thân ta nay mạnh mai đau, tâm ta cũng buồn vui thương ghét không chừng. Liên hệ đến lời Phật dạy về vô thường nơi thân-tâm-cảnh, ta thấy quả Đức Phật nói không sai chút nào. Đây là nhờ nghe mà tỉnh sáng (Văn huệ).

Suy gẫm về lý vô thường, càng ngày ta càng thấm thía. Vô thường chi phối mọi sự vật hiện tượng, mọi giống loài ở cả ba thời, nên là chân lý vượt thời giankhông gian. Giở lại những tấm ảnh ngày xưa còn bé, so với gương mặt ta hiện giờ thật khác xa nhau lắm. Nhớ lại tâm trạng ta ngày mới ra trường, bằng cấp trong tay và tương lai rạng ngời trước mắt, ngỡ mình có thể ôm trọn cả thế giới, bây giờ chỉ còn những lo toan trong cuộc sống thường nhật, những vết nhăn trên trán và hố thẳm trong tâm hồn. Có dịp dạo quanh một Tháp Chàm cổ kính, ta tự hỏi một vương triều hùng mạnh giờ đang ở đâu, lầu các nguy nga sao nay chỉ là bạt ngàn cỏ xanh ngăn ngắt? Càng có thời gian chiêm nghiệm, ta càng có khả năng giải thích nhiều thắc mắc về cuộc sống và con người. Nhà Phật gọi đó là Tư huệ, trí huệ do tư duy mà có.

Nghe và suy nghĩhiểu biết, chúng ta tiến đến Tu huệ. Quán chiếu thân-tâm-cảnh vốn vô thường, ta không tham cầu địa vị, tài sản cung phụng cho thân vì biết nó nay còn mai mất. Ta không buồn đau vì sự tráo trở của tình người, vì biết vọng tâm luôn biến đổi. Ta không bận lòng trước hoàn cảnh thuận nghịch, vì biết chúng chuyển biến theo tiến trình sanh-trụ-dị-diệt, thành-trụ-hoại-không. Nhờ tu tập, ta phân biệt được chánh-tà, thiện-ác. Thân tâm chuyển hóa, dần dần ta trở thành người hiền thiện, góp phần Phật hóa gia đìnhthanh tịnh hóa xã hội. Ta cảm nhận sự an lạc trong chánh pháp, phiền não tham-sân-si dần dần giảm thiểu. Nói chung, do công huân tu tậptrí huệ khai phát, gọi là Tu huệ.

Tam huệ học thuộc trí huệ do Thầy truyền dạy, nhờ Thầy mà phát triển. Nhà Phật gọi là giác ngộ bậc hạ giúp người tu giảm thiểu phiền não, nhưng vẫn chưa ra khỏi sinh tử, nên được xem là hữu lậu (còn rơi rớt). Dù vậy, đây là những bước cơ bản, như nền móng của tòa nhà, như chân đế của tượng đài, như cội rễ của cây cối. Nếu nền cội không vững chắc, tòa nhà càng cao càng dễ sụp đổ, cây càng lớn càng dễ tróc gốc khi giông bão ập đến. Cho nên, Tam huệ học là nền tảng tối cần thiết cho mọi người con Phật trong những bước đầu tìm đến hương vị giải thoát.

 2. Tam vô lậu học

Mục tiêu tối hậu của người tu là giác ngộ đưa đến giải thoát khỏi vòng kềm tỏa sinh tử luân hồi. Tam vô lậu họccon đường duy nhất giúp đạt được mục tiêu ấy. Giới-Định-Huệ không phải là ba giai đoạn công phu theo thứ tự trước sau (từ Giới sinh Định, từ Định phát Huệ) mà có sự liên hệ hỗ tương, đan xen vào nhau và nhân quả cho nhau.

Giới: là những điều luật do Đức Phật chế ra nhằm ngăn ngừa tội lỗi trong hiện tại và tương lai. Giới được xem như hàng rào bảo vệ người tu khỏi sa vào hố sâu, là bức tường ngăn chặn sự tán tâm phóng dật, là bờ đê ngăn dòng nước lũ của ngũ dục, lục trần. Nhà Phật chia giới làm hai loại:

- Biệt giới: là những giới dành riêng cho từng đối tượng, tùy trình độ giới tính, xuất gia hay tại gia, như Ngũ giới, Thập thiện, Bát quan trai giới dành cho cư sĩ; Mười giới của Sa-di và Sa-di-ni, 250 giới của Tỳ-kheo và 348 giới của Tỳ-kheo-ni.

- Thông giới: là giới Bồ tát, thông dùng cho mọi ngườitâm nguyện trên cầu Phật đạo dưới hóa độ chúng sanh. Bồ tát giới còn có tên là Vô tận tạng giới, vì khi thọ giới nầy, người tu phải phát tâm rộng lớn dũng mãnh, kiên cố và trường viễn, không chỉ trong một đời mà từ nay cho đến khi thành tựu Phật quả. Còn gọi là Tâm địa giới, vì nhờ giữ giới nầy, người tu phát minh tâm địachơn tâm sẵn đủ của chính mình. Cũng gọi là Đại thừa giới vì chú trọng đến sự nghịêp hoằng hóa lợi sanh.

Với nghĩa tích cực, giới không chỉ ngăn ngừa việc ác mà còn phát triển hạnh lành, tạo sự an lạc, hạnh phúc ngay hiện đời và về sau cho bản thânxã hội. Đặc biệt hơn, giới là điều kiện tối cần cho người tu trau dồi đạo đức, thăng hoa tâm linh. Mục đích của giới không phải tạo một khuôn mẫu lý tưởng cứng nhắc, càng không phải là tiêu chuẩn so sánh mức độ tu hành, mà là phương tiện tối thắng đưa hành giả tiến theo lộ trình Giác ngộ - Giải thoát. Giới luật nhà Phật lập cước trên trí tuệtừ bi. Có trí tuệ nên phân biệt rành rẽ thiện ác chánh tà, biết tránh làm những việc mình không muốn người khác làm cho mình, nên giới được tuân giữ bằng ý thức tự nguyện tự chủ. Có từ bi vì biết chúng sanh bình đẳng ở tánh giác, nên có sự cảm thông, có tình thương rộng lớn với muôn loài muôn vật, không nỡ làm điều gì tổn hại đến người và vật. Nhờ nghiêm cẩn giữ giới, tâm hồn ta trở nên thanh cao, mọi đức hạnhthiện pháp được trưởng dưỡng. Giới được xem là sinh mạng của Đạo Phật, ngày nào giới luật không ai tuân thủ thì ngày ấy Phật pháp không còn tồn tại trên thế gian này.

Người tu chúng ta đều biết bài kệ sau:

Không làm mọi điều ác

Vâng làm các việc lành

Giữ tâm ý trong sạch

Là lời chư Phật dạy.

Hai câu đầu là nội dung của giới. Câu thứ ba “Giữ tâm ý trong sạch” có hai ý nghĩa: Một là không nghĩ tưởng những điều xấu ác. Vì nghiệp phát sinh từ thân miệng ý, trong đó ý dẫn đầu, nên hành giả phải ngăn chặn ngay từ thời điểm mà tội lỗi chỉ mới tượng hình trong ý nghĩ. Thứ hai, thanh tịnh tâm ý là không để tâm tán loạn. Thường chúng ta mãi duyên theo trần cảnh bên ngoài, phân biệt phải quấy tốt xấu, lại cứ suy nghĩ lăng xăng việc mình việc người, hết nhớ về quá khứ đến tưởng tượng tương lai. Vì tán tâm nên ta không đủ sáng suốt, gặp việc hay mất bình tĩnh, nói năng hành động không hợp lý. Như cây đèn dầu không bóng đặt trước gió, ngọn lửa cứ chao qua lại, không soi tỏ vật gì. Nếu đèn có bóng, đặt ở nơi yên gió, ánh sáng sẽ chiếu soi mọi vật. Những pháp môn Phật dạy đều giúp tâm hành giả bớt tán loạn, dần dần trở nên thanh tịnh: Người tu Tịnh độ niệm Lục tự Di-Đà, Mật tông trì chú, Thiền Nguyên thủy giữ chánh niệm trên bốn lĩnh vực thân-thọ-tâm-pháp…, đều có mục đích đưa tâm từ đa niệm trở về nhất niệm. Tâm dừng hết mọi suy nghĩ vẩn vơ, ấy là Định - trạng thái tĩnh lặng mà Thiền sư Suzuki ví như: “mặt biển im phắc trong bóng đêm, không gợn sóng và phản chiếu sao trời”.

Khi tâm an định, Huệ phát sinh, như mặt hồ yên tĩnh, ánh trăng soi bóng sáng ngời. Trí huệ nầy không từ bên ngoài mà được. Phát khởi khi vắng bặt mọi vọng tưởng đảo điên, tâm trở về trạng thái rỗng rang thanh tịnh. Trí huệ có sẵn nơi mỗi chúng sanh, ở Phật không thêm nơi phàm phu chẳng bớt, nên gọi là Trí vô sư, như lời Đức Bổntuyên bố: “Ta học đạo không thầy”.

Hành giả Tịnh độ niệm Phật đến giai đoạn “nhất tâm bất loạn” tức vô niệm, sẽ thấy Đức Phật A-Di-Đà, tức nhận ra tự tánh Vô lượng quang - Vô lượng thọ của chính mình. Hành giả Mật tông công phu đến “Tam mật tương ưng” sẽ được Đức Phật Đại Nhật thọ ký, tức mặt trời trí huệ của tự tâm. Thiền tông thì không duy trì trạng thái tịch lặng gọi là Si định, cũng không chủ trương từ Định mới có Huệ như một tiến trình nhân quả tiếp nối nhau. Từ thời Lục Tổ Huệ-Năng, tinh thần “Định-Huệ đồng thời” được xiển dương, tức Định tức Huệ. Huệ không phải là phát sinh nhờ Định, mà nằm ngay trong cái Biết từ những công việc thường ngày. Biết nhưng không khởi niệm là Định, Định mà vẫn thấy nghe hay biết là Huệ, Định Huệ không hai.

Thật ra, chỉ công phu miên mật đã bao gồm Tam vô lậu học. Hành giả tu Thiền Tứ niệm xứ, thân ngồi kiết già bắt ấn tam muộiGiới; tâm chuyên chú vào hơi thởĐịnh; hơi thở ra vào dài ngắn đều tuệ triHuệ. Như người leo núi, tùy sức khỏe, khả năng, sở thích mà chọn cho mình một con đường thích hợp, nhưng đích đến cuối cùng chỉ có một đỉnh duy nhất. Hành giả tu Phật cũng thế, tùy căn cơ trình độ và duyên lành đối với vị Thầy Bổn Sư mà hành trì theo pháp môn tương ứng, nhưng cứu cánh vẫn là Giác ngộ Phật tánh thường tịch thường tri và Giải thoát khỏi trầm luân sinh tử.

Một điều chúng ta cần lưu ý: Hành giả bước đầu giữ giới tức tránh ác làm thiện, nhờ giới giúp tịnh hóa thân tâm. Tiến thêm một bước, hướng về chân trời bao la của cảnh giới siêu vượt nhị biên, không nghĩ thiện không nghĩ ác. Nếu người giữ giới còn thấy mình là người giữ, có giới luật để giữ, thì đã sa vào ngã chấp hay chấp vào tứ tướng (ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả - tinh thần của kinh Kim Cang), chướng ngại lớn trên đường tu. Ngài Huệ Năng chủ trương “Chỉ luận kiến tánh, không luận thiền định giải thoát”, Thiền tông xem giác ngộcứu cánh. Nếu không giác ngộ, hành giả dễ vướng mắc vào những giới mình đã giữ và những tầng thiền định mình đã chứng. Khi tâm dừng hết mọi vọng niệm, mọi nghĩ tưởng phân biệt, trải rộng và vắng lặng như hư không mà thường biết rõ ràng, hành giả thể nhập Tánh giác sẵn có nơi chính mình. Cái biết ấy không có hình tướng nên không đến đi trong sinh diệt, trải rộng thì khắp châu sa giớithu gọn thì trên đầu hạt cải, như Luận Tối Thượng Thừa viết: “Ấy là Pháp thân thanh tịnh chân không, không hình không tướng, tròn đồng thái hư, nghiễm nhiên thường trụ. Tướng của chân không là thật-tướng vô-tướng, trong lặng như thái hư; rộng thì pháp giới chẳng thể chứa, hẹp thì mảy lông không chỗ lập”.

Thiền sư Huyền Giác trong Chứng đạo ca có hai câu kệ:

“Bất ly đương xứ thường trạm nhiên

Mích tức tri quân bất khả kiến.”([i])

Tánh giác sẵn đủ hay Trí huệ Bát nhã là cội nguồn chân thật của mọi chúng sanh, lặng lẽ mà thường biết ngay đương xứ (bây giờ - ở đây), không thể dùng ngôn ngữ diễn tả, không thể dùng ý thức biện biệt, càng không thể tìm cầu bên ngoài. Bằng trí huệ vượt thường nầy, Đức Phật biết tường tận bản thể của mọi sự vật, từ vô thủy đến vô chung, nên những lời Ngài nói ra đều là chân lý tuyệt đối.

Khoa học ngày càng phát triển, nên người tu Phật cũng cần có kiến thức thế học mới phù hợp với xã hội hiện đại. Nhân minh là một trong năm khả năng mà người hành Bồ tát hạnh phải trau dồi. Bên cạnh đó, kiến thức Phật học phải vững vàng để không đi lạc vào đường mê lối rẽ. Tuy nhiên, nếu chỉ chú trọng bằng cấp, xem đó là mục đích tu hành, thì ta đã sa vào mớ bòng bong chữ nghĩa mà nhà Thiền gọi là “sắn bìm”. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, ba tạng kinh điển đồ sộ là ngón tay chỉ mặt trăng chân lý, là thuyền bè đưa người qua bể khổ sinh tử. Nếu cứ chăm chú vào ngón tay thì bao giờ thấy mặt trăng, cứ ngồi trên thuyền mà không chèo thì bao giờ đến bờ? Chấp phương tiện làm cứu cánh là sự lầm lẫn đáng tiếc của người tu chúng ta trong đời hiện đại, có khi vì bằng cấp mà sinh phiền não, tị hiềm, thậm chí oán trách Bổn Sư, gây trở ngại trong tâm mình và ảnh hưởng không hay đến đại chúng; đường tu từ đó đi xuống mà không biết. Cho nên, người tu có khi không là học giả nhưng cần là - và phải là hành giả.

Nói tóm lại, chúng ta tu theo Đức Phật cần phát huy trí huệ, cả Trí hữu sưTrí vô sư. Giai đoạn đầu, ta học tập giáo lý, nghiên cứu kinh điển để biết rõ đường hướng tu hành, không lạc vào tà đạo; đồng thời, cần có kiến thức thế gian để chuẩn bị hành trang cho công cuộc hoằng pháp lợi sanh sau nầy. Nhưng Trí hữu sưkiến thức vay mượn từ bên ngoài, không phải của báu nhà mình, lại có tính hữu hạn tương đối, nên chỉ được xem là phương tiện hỗ trợ trong công phu. Chúng ta cần tiến theo lộ trình Tam vô lậu học, trực nhận tánh giác bản lai, thể nhập chân tánh, phát khởi Trí vô sư. Đó mới là viên ngọc như ý của chính mình, không vay mượn ai cũng không ai vay mượn được, mới là sự nghiệp chung thân. Trí huệ vô sư bừng sáng như mặt trời ra khỏi đám mây, xua tan bóng đêm vô minh từ bao đời kiếp, hành giả giác ngộ toàn triệt như Sa-môn Cồ-Đàm trong Đêm thành đạo. Giác ngộ trọn vẹn, hành giả thật sự giải thoát khỏi tám vạn bốn ngàn trần lao phiền não, khỏi ba cõi sáu đường của sinh tử luân hồi.

Đức Phật là Bậc Giác ngộ viên mãn, chư Tổ nối tiếp theo Ngài là những vị đã giác ngộ, chư Tăng Ni - trưởng tử Như Lai là những người kế thừa sự nghiệp hoằng truyền chánh pháp, thì Phật tử tại gia cũng không thể là những kẻ si mê. Dù chỉ như đốm lửa nhỏ hay ánh sáng đom đóm, chúng ta cũng phải làm phương tiện soi đường cho chính mình và cho người xung quanh đi theo dấu chân Đức Phật. Có phước duyên sâu dày được sống trong vòng giáo huấn của Ngài, chúng ta nên lựa chọn cho mình một pháp môn thích hợptinh tấn hành trì không gián đoạn. Khi nhận ra Phật tâm hằng hữu, phát khởi Trí vô sư, sống trọn vẹn bằng gia tài đồ sộ, ta mới thoát kiếp cùng tử lang thang trong luân hồi vô tận. Có như thế, ta mới không cô phụ bản hoài của chư Phật và không cô phụ tánh linh của chính mình.



[i]Chẳng lìa đương xứ thường lặng yên / Vừa khởi tâm tìm anh chẳng thấy.”


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17445)
Trời tu viện rộng và đẹp, sáng nay mây ngoài biển đã kéo vào chưa? Thôi, xin mời thầy hãy vào cốc Trăng Lên, nhóm lửa và thêm chút củi vào cho ấm... Nguyễn Duy Nhiên
(Xem: 46546)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 9630)
Ghi chép lại những bài giảng của Chư Tôn Đức cho các Huynh trưởng và Đoàn sinh GĐPTVN... Tâm Minh Vương Thúy Nga
(Xem: 8826)
“Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt, Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”... Thích Chân Tính
(Xem: 15948)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15577)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18361)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9665)
Mỗi trang sách là một lời nhắn nhủ, ta như đang nghe giọng nói nhẹ nhàng, dí dỏm của Thầy: Các bạn cứ nhìn lại xem, tình thươngtuệ giác của Bụt ở ngay trong lòng của bạn.
(Xem: 9730)
Tập truyện Thường Ðề Bồ Tát (Bồ Tát Hay Khóc) được trích dịch trong cuốn “Vô Thanh Thoại Tập” của Pháp sư Long Căn... TT Thích Chân Tính biên dịch
(Xem: 18524)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 15726)
Khánh Hòa là xứ Trầm Hương, Non cao biển rộng người thương đi về... Quách Tấn
(Xem: 10999)
Bản thảo của tập tiểu luận này đã được viết xong từ mùa hè năm 1974, nhưng chưa kịp in thì biến cố 30.4.1975 xảy ra... Hạnh Cơ
(Xem: 8991)
Kinh ThiKinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông... Tuệ Sỹ
(Xem: 10496)
Hương Vị Của Đất - Văn Lang Dị Sử - HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 10263)
Tập sách “Hồ Sơ Mật 1963 - Từ các nguồn Tài liệu của Chính phủ Mỹ”... Nhóm Thiện Pháp thực hiện, Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications 2013
(Xem: 9415)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không... Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 11584)
Hương Lúa Chùa Quê là tập sách Hoài Niệm về Tuổi Thơ của hai anh em là HT Thích Bảo Lạc ở Úc Châu và HT Thích Như Điển ở Âu Châu
(Xem: 10144)
Hoà Thượng vào bậc Cao Tăng nổi tiếng hiện nay rằng: “Được học và hành theo Phật pháp là một sự hưởng thụ tối cao nhất trong tất cả mọi sự hưởng thụ trên thế gian…” Quảng Huy
(Xem: 23088)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 9634)
Đạo Phật thường nói về nhân quả, luân hồi, tái sanh nhưng lại bác bỏ khái niệm linh hồn của các tôn giáo hữu thần. Vậy thì cái gì tái sanh luân hồi để lãnh lấy nhân quả... Alexander Berzin; Tuệ Uyển
(Xem: 17309)
Tuyển tập những bài viết cho mẹ, cụ bà Nguyễn Thị Sáu của Hư Thân Huỳnh Trung Chánh
(Xem: 16724)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 19160)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 10234)
Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này.
(Xem: 19471)
Lão tửtriết gia đầu tiên của Trung Quốc luận về vũ trụ, có một quan niệm tiến bộ, vô thần về bản nguyên của vũ trụ mà ông gọi là Đạo... Nguyễn Hiến Lê dịch
(Xem: 9493)
Trên căn bản của thực tại, hạnh phúc bao giờ cũng cưu mang trong chính nó một sức sống tràn đầy sinh lực của cảm xúc an bình được sinh khởi từ bản thể của nội tâm... Khải Thiên
(Xem: 12339)
Quyển Liễu Phàm Tứ Huấn là sách khuyến dạy tu thiện, giúp xây dựng lại và củng cố nền tảng căn bản làm người: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí ,Tín... Ấn Quang Đại Sư; Tuệ Châu Bùi Dư Long dịch
(Xem: 12039)
CUỐN TỰ ĐIỂN HÁN - VIỆT THẾ KỶ 19; Việt Nam thời xưa có các sách khải mông hay tự biểu được dùng để dạy chữ Hán cho trẻ đồng ấu... Nguyễn Đình Hòa - Trần Trọng Dương dịch
(Xem: 19921)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 12748)
Hạnh Phúc Là Điều Có Thật - Tác giả Nguyễn Minh Tiến (Nguyên Minh)
(Xem: 13181)
Sống Một Đời Vui - The Joy Of Living; Nguyên tác Yongey Mingyur Rinpoche, Diệu Hạnh Giao Trinh & Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 14446)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32464)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 13118)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12011)
Từ Chánh Niệm Đến Giác Ngộ là cẩm nang của người tu Thiền. Nguyên tác Mindfulness, Bliss and Beyond của Ajahn Brahm; Nguyên Nhật Trần Như Mai dịch
(Xem: 20970)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 40697)
Theo đạo Phật, luật nhân quả không chỉ giới hạn trong một đời sống hiện tại này, mà là một quy luật chi phối trong suốt dòng thời gian...
(Xem: 10147)
Những Chuyện Nhân Quả - Nguyên tác: Thích Hải Đảo, Đạo Quang dịch
(Xem: 9605)
Chú Tiểu Ngắm Sen là tuyển tập các truyện ngắn của tác giả Ngô Khắc Tài
(Xem: 19056)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
(Xem: 8910)
Chánh Niệm - Bhante Henepola Gunaratana; Mindfulness in Plain English; Lương Thanh Bình dịch
(Xem: 8385)
Tập truyện dài 2 tập của Vĩnh Hảo - CHIÊU HÀ xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1997
(Xem: 10515)
Đức Phật đến trong cuộc đời là một con người bằng xương bằng thịt, vui những nỗi vui của trần gian, đau những nỗi đau của con người. Để từ đó Ngài vươn lên và vực dậy giấc trường mộng Nam Kha... HT Thích Nhật Quang
(Xem: 11746)
Lược Sử Phật GiáoHồi Giáo Tại Afghanistan - Nguyên tác: Alexander Berzin, Người dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 30717)
Sự khai triển của Phật giáo Đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 11567)
Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại Sưu Khảo gồm có 2 tập do Chư Tôn Đức Tăng Ni và Chư vị thân hào nhân sỹ Phật giáo góp bài để tập thành... Nhiều Tác Giả
(Xem: 10510)
Mở Rộng Cửa Tâm Mình và những mẫu chuyện Phật Giáo nói về Hạnh phúc, Opening The Door Of Your Heart and other Buddhist Tales of Happiness, Nguyên tác: Ajahn Brahm; Chơn Quán Trần Ngọc Lợi dịch
(Xem: 16134)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 25761)
“Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng” là tên của một quyển sách, do thầy Phạm Công Thiện đặt cho. Bây giờ Thầy đã lên tới đỉnh cao, bỏ lại sau lưng là hố thẳm... Nguyên Siêu
(Xem: 10089)
Đây là câu chuyện được phóng tác từ nhân vật Phật giáo có thật trong lịch sử cận đại, thời nhà Nguyễn gầy dựng đế nghiệp ở kinh đô Huế từ nửa đầu thập niêm 80 của thế kỷ 18.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant