Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trí tuệ trong Đạo Phật

07 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 6692)
Trí tuệ trong Đạo Phật

SỨ MỆNH CỦA ĐẠO PHẬT

NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP TP. HỒ CHÍ MINH 2010

Trí tuệ trong Đạo Phật

Sau năm năm học đạo cùng các vị tiên nhân và sáu năm khổ hạnh, Sa-môn Cồ-Đàm vẫn chưa tìm ra phương pháp thoát ly sinh tử. Ngài biết đạo không thể cầu bên ngoài, nên quyết định tự mình phăng tìm tận nguồn tâm của chính mình. Bốn mươi chín ngày đêm thiền định dưới cội cây Tất-bát-la là thời gian Ngài quay về cội nguồn, soi sáng tận những ngõ ngách sâu kín của tự tâm. Và khi mọi vọng niệm bặt dứt, mọi lậu hoặc vi tế đoạn trừ, Ngài hoát nhiên đại ngộ vào đêm cuối cùng, khi sao Mai vừa mọc.

Một nhà bác học đã thừa nhận: “Điểm tận cùng của khoa học chỉ là mức khởi đầu của Phật giáo”. Đạo Phậtđạo trí tuệ, vì vị Giáo chủ đã tỏ ngộ chân lý tuyệt đối và giảng dạy cho đồ chúng những gì Ngài biết bằng trí tuệ siêu xuất của mình. Nền khoa học cách đây 25 thế kỷ vẫn còn sơ khai, con người chưa có kính hiển vi hay viễn vọng, cũng chưa có phi thuyền không gian, thế mà Đức Phật đã biết trong ly nước có vô số vi trùng, trong vũ trụhằng sa thế giới. Những lời dạy của Ngài về vũ trụ nhân sinh, cho đến nay vẫn là chân lý; và khoa học càng tiến bộ, càng chứng minh sự đúng đắn của mọi điều Ngài tuyên thuyết. Trí tuệ ấy do đâu mà có? - Chỉ do sức thiền định sâu xa, tự nơi mình mà khám phá. Trí tuệ ấy cũng sẵn có trong tất cả chúng sanh, chỉ vì vô minh che lấp nên mãi chịu kiếp đọa đày trong trần lao sinh tử, như mặt trăng luôn hiện hữu trên trời không, vì mây phủ che nên dưới đất bị bao trùm trong bóng tối.

Nhưng làm thế nào mà mây tan trăng hiện?

Nhà Phật phân biệt hai loại trí tuệ, như là kết quả của hai giai đoạn hành trì: Một là Trí hữu sư, kiến thức tích lũy qua quá trình nghe, suy tư và tu theo lời dạy của Thiện hữu tri thức (Văn-Tư-Tu huệ). Hai là Trí vô sư, tức trí tuệ sẵn có nơi nguồn tâm, hoặc trí tuệ tự mình phát khởi do nghiêm trì giới luật và tâm an định (Giới-Định-Huệ). Văn-Tư-Tu được gọi là Tam huệ học, Giới-Định-Huệ gọi là Tam vô lậu học.

 1. Tam huệ học

Khi nghe thuyết pháp hay đọc kinh sách, có lúc ta chợt hiểu ra nhiều vấn đềxưa nay ta chưa hề hiểu, hoặc có lưu tâm nhưng mờ mịt không rõ căn nguyên. Như nhìn hoa nở rồi tàn, cảnh hợp rồi tan, người sinh rồi tử; cho đến thân ta nay mạnh mai đau, tâm ta cũng buồn vui thương ghét không chừng. Liên hệ đến lời Phật dạy về vô thường nơi thân-tâm-cảnh, ta thấy quả Đức Phật nói không sai chút nào. Đây là nhờ nghe mà tỉnh sáng (Văn huệ).

Suy gẫm về lý vô thường, càng ngày ta càng thấm thía. Vô thường chi phối mọi sự vật hiện tượng, mọi giống loài ở cả ba thời, nên là chân lý vượt thời giankhông gian. Giở lại những tấm ảnh ngày xưa còn bé, so với gương mặt ta hiện giờ thật khác xa nhau lắm. Nhớ lại tâm trạng ta ngày mới ra trường, bằng cấp trong tay và tương lai rạng ngời trước mắt, ngỡ mình có thể ôm trọn cả thế giới, bây giờ chỉ còn những lo toan trong cuộc sống thường nhật, những vết nhăn trên trán và hố thẳm trong tâm hồn. Có dịp dạo quanh một Tháp Chàm cổ kính, ta tự hỏi một vương triều hùng mạnh giờ đang ở đâu, lầu các nguy nga sao nay chỉ là bạt ngàn cỏ xanh ngăn ngắt? Càng có thời gian chiêm nghiệm, ta càng có khả năng giải thích nhiều thắc mắc về cuộc sống và con người. Nhà Phật gọi đó là Tư huệ, trí huệ do tư duy mà có.

Nghe và suy nghĩhiểu biết, chúng ta tiến đến Tu huệ. Quán chiếu thân-tâm-cảnh vốn vô thường, ta không tham cầu địa vị, tài sản cung phụng cho thân vì biết nó nay còn mai mất. Ta không buồn đau vì sự tráo trở của tình người, vì biết vọng tâm luôn biến đổi. Ta không bận lòng trước hoàn cảnh thuận nghịch, vì biết chúng chuyển biến theo tiến trình sanh-trụ-dị-diệt, thành-trụ-hoại-không. Nhờ tu tập, ta phân biệt được chánh-tà, thiện-ác. Thân tâm chuyển hóa, dần dần ta trở thành người hiền thiện, góp phần Phật hóa gia đìnhthanh tịnh hóa xã hội. Ta cảm nhận sự an lạc trong chánh pháp, phiền não tham-sân-si dần dần giảm thiểu. Nói chung, do công huân tu tậptrí huệ khai phát, gọi là Tu huệ.

Tam huệ học thuộc trí huệ do Thầy truyền dạy, nhờ Thầy mà phát triển. Nhà Phật gọi là giác ngộ bậc hạ giúp người tu giảm thiểu phiền não, nhưng vẫn chưa ra khỏi sinh tử, nên được xem là hữu lậu (còn rơi rớt). Dù vậy, đây là những bước cơ bản, như nền móng của tòa nhà, như chân đế của tượng đài, như cội rễ của cây cối. Nếu nền cội không vững chắc, tòa nhà càng cao càng dễ sụp đổ, cây càng lớn càng dễ tróc gốc khi giông bão ập đến. Cho nên, Tam huệ học là nền tảng tối cần thiết cho mọi người con Phật trong những bước đầu tìm đến hương vị giải thoát.

 2. Tam vô lậu học

Mục tiêu tối hậu của người tu là giác ngộ đưa đến giải thoát khỏi vòng kềm tỏa sinh tử luân hồi. Tam vô lậu họccon đường duy nhất giúp đạt được mục tiêu ấy. Giới-Định-Huệ không phải là ba giai đoạn công phu theo thứ tự trước sau (từ Giới sinh Định, từ Định phát Huệ) mà có sự liên hệ hỗ tương, đan xen vào nhau và nhân quả cho nhau.

Giới: là những điều luật do Đức Phật chế ra nhằm ngăn ngừa tội lỗi trong hiện tại và tương lai. Giới được xem như hàng rào bảo vệ người tu khỏi sa vào hố sâu, là bức tường ngăn chặn sự tán tâm phóng dật, là bờ đê ngăn dòng nước lũ của ngũ dục, lục trần. Nhà Phật chia giới làm hai loại:

- Biệt giới: là những giới dành riêng cho từng đối tượng, tùy trình độ giới tính, xuất gia hay tại gia, như Ngũ giới, Thập thiện, Bát quan trai giới dành cho cư sĩ; Mười giới của Sa-di và Sa-di-ni, 250 giới của Tỳ-kheo và 348 giới của Tỳ-kheo-ni.

- Thông giới: là giới Bồ tát, thông dùng cho mọi ngườitâm nguyện trên cầu Phật đạo dưới hóa độ chúng sanh. Bồ tát giới còn có tên là Vô tận tạng giới, vì khi thọ giới nầy, người tu phải phát tâm rộng lớn dũng mãnh, kiên cố và trường viễn, không chỉ trong một đời mà từ nay cho đến khi thành tựu Phật quả. Còn gọi là Tâm địa giới, vì nhờ giữ giới nầy, người tu phát minh tâm địachơn tâm sẵn đủ của chính mình. Cũng gọi là Đại thừa giới vì chú trọng đến sự nghịêp hoằng hóa lợi sanh.

Với nghĩa tích cực, giới không chỉ ngăn ngừa việc ác mà còn phát triển hạnh lành, tạo sự an lạc, hạnh phúc ngay hiện đời và về sau cho bản thânxã hội. Đặc biệt hơn, giới là điều kiện tối cần cho người tu trau dồi đạo đức, thăng hoa tâm linh. Mục đích của giới không phải tạo một khuôn mẫu lý tưởng cứng nhắc, càng không phải là tiêu chuẩn so sánh mức độ tu hành, mà là phương tiện tối thắng đưa hành giả tiến theo lộ trình Giác ngộ - Giải thoát. Giới luật nhà Phật lập cước trên trí tuệtừ bi. Có trí tuệ nên phân biệt rành rẽ thiện ác chánh tà, biết tránh làm những việc mình không muốn người khác làm cho mình, nên giới được tuân giữ bằng ý thức tự nguyện tự chủ. Có từ bi vì biết chúng sanh bình đẳng ở tánh giác, nên có sự cảm thông, có tình thương rộng lớn với muôn loài muôn vật, không nỡ làm điều gì tổn hại đến người và vật. Nhờ nghiêm cẩn giữ giới, tâm hồn ta trở nên thanh cao, mọi đức hạnhthiện pháp được trưởng dưỡng. Giới được xem là sinh mạng của Đạo Phật, ngày nào giới luật không ai tuân thủ thì ngày ấy Phật pháp không còn tồn tại trên thế gian này.

Người tu chúng ta đều biết bài kệ sau:

Không làm mọi điều ác

Vâng làm các việc lành

Giữ tâm ý trong sạch

Là lời chư Phật dạy.

Hai câu đầu là nội dung của giới. Câu thứ ba “Giữ tâm ý trong sạch” có hai ý nghĩa: Một là không nghĩ tưởng những điều xấu ác. Vì nghiệp phát sinh từ thân miệng ý, trong đó ý dẫn đầu, nên hành giả phải ngăn chặn ngay từ thời điểm mà tội lỗi chỉ mới tượng hình trong ý nghĩ. Thứ hai, thanh tịnh tâm ý là không để tâm tán loạn. Thường chúng ta mãi duyên theo trần cảnh bên ngoài, phân biệt phải quấy tốt xấu, lại cứ suy nghĩ lăng xăng việc mình việc người, hết nhớ về quá khứ đến tưởng tượng tương lai. Vì tán tâm nên ta không đủ sáng suốt, gặp việc hay mất bình tĩnh, nói năng hành động không hợp lý. Như cây đèn dầu không bóng đặt trước gió, ngọn lửa cứ chao qua lại, không soi tỏ vật gì. Nếu đèn có bóng, đặt ở nơi yên gió, ánh sáng sẽ chiếu soi mọi vật. Những pháp môn Phật dạy đều giúp tâm hành giả bớt tán loạn, dần dần trở nên thanh tịnh: Người tu Tịnh độ niệm Lục tự Di-Đà, Mật tông trì chú, Thiền Nguyên thủy giữ chánh niệm trên bốn lĩnh vực thân-thọ-tâm-pháp…, đều có mục đích đưa tâm từ đa niệm trở về nhất niệm. Tâm dừng hết mọi suy nghĩ vẩn vơ, ấy là Định - trạng thái tĩnh lặng mà Thiền sư Suzuki ví như: “mặt biển im phắc trong bóng đêm, không gợn sóng và phản chiếu sao trời”.

Khi tâm an định, Huệ phát sinh, như mặt hồ yên tĩnh, ánh trăng soi bóng sáng ngời. Trí huệ nầy không từ bên ngoài mà được. Phát khởi khi vắng bặt mọi vọng tưởng đảo điên, tâm trở về trạng thái rỗng rang thanh tịnh. Trí huệ có sẵn nơi mỗi chúng sanh, ở Phật không thêm nơi phàm phu chẳng bớt, nên gọi là Trí vô sư, như lời Đức Bổntuyên bố: “Ta học đạo không thầy”.

Hành giả Tịnh độ niệm Phật đến giai đoạn “nhất tâm bất loạn” tức vô niệm, sẽ thấy Đức Phật A-Di-Đà, tức nhận ra tự tánh Vô lượng quang - Vô lượng thọ của chính mình. Hành giả Mật tông công phu đến “Tam mật tương ưng” sẽ được Đức Phật Đại Nhật thọ ký, tức mặt trời trí huệ của tự tâm. Thiền tông thì không duy trì trạng thái tịch lặng gọi là Si định, cũng không chủ trương từ Định mới có Huệ như một tiến trình nhân quả tiếp nối nhau. Từ thời Lục Tổ Huệ-Năng, tinh thần “Định-Huệ đồng thời” được xiển dương, tức Định tức Huệ. Huệ không phải là phát sinh nhờ Định, mà nằm ngay trong cái Biết từ những công việc thường ngày. Biết nhưng không khởi niệm là Định, Định mà vẫn thấy nghe hay biết là Huệ, Định Huệ không hai.

Thật ra, chỉ công phu miên mật đã bao gồm Tam vô lậu học. Hành giả tu Thiền Tứ niệm xứ, thân ngồi kiết già bắt ấn tam muộiGiới; tâm chuyên chú vào hơi thởĐịnh; hơi thở ra vào dài ngắn đều tuệ triHuệ. Như người leo núi, tùy sức khỏe, khả năng, sở thích mà chọn cho mình một con đường thích hợp, nhưng đích đến cuối cùng chỉ có một đỉnh duy nhất. Hành giả tu Phật cũng thế, tùy căn cơ trình độ và duyên lành đối với vị Thầy Bổn Sư mà hành trì theo pháp môn tương ứng, nhưng cứu cánh vẫn là Giác ngộ Phật tánh thường tịch thường tri và Giải thoát khỏi trầm luân sinh tử.

Một điều chúng ta cần lưu ý: Hành giả bước đầu giữ giới tức tránh ác làm thiện, nhờ giới giúp tịnh hóa thân tâm. Tiến thêm một bước, hướng về chân trời bao la của cảnh giới siêu vượt nhị biên, không nghĩ thiện không nghĩ ác. Nếu người giữ giới còn thấy mình là người giữ, có giới luật để giữ, thì đã sa vào ngã chấp hay chấp vào tứ tướng (ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả - tinh thần của kinh Kim Cang), chướng ngại lớn trên đường tu. Ngài Huệ Năng chủ trương “Chỉ luận kiến tánh, không luận thiền định giải thoát”, Thiền tông xem giác ngộcứu cánh. Nếu không giác ngộ, hành giả dễ vướng mắc vào những giới mình đã giữ và những tầng thiền định mình đã chứng. Khi tâm dừng hết mọi vọng niệm, mọi nghĩ tưởng phân biệt, trải rộng và vắng lặng như hư không mà thường biết rõ ràng, hành giả thể nhập Tánh giác sẵn có nơi chính mình. Cái biết ấy không có hình tướng nên không đến đi trong sinh diệt, trải rộng thì khắp châu sa giớithu gọn thì trên đầu hạt cải, như Luận Tối Thượng Thừa viết: “Ấy là Pháp thân thanh tịnh chân không, không hình không tướng, tròn đồng thái hư, nghiễm nhiên thường trụ. Tướng của chân không là thật-tướng vô-tướng, trong lặng như thái hư; rộng thì pháp giới chẳng thể chứa, hẹp thì mảy lông không chỗ lập”.

Thiền sư Huyền Giác trong Chứng đạo ca có hai câu kệ:

“Bất ly đương xứ thường trạm nhiên

Mích tức tri quân bất khả kiến.”([i])

Tánh giác sẵn đủ hay Trí huệ Bát nhã là cội nguồn chân thật của mọi chúng sanh, lặng lẽ mà thường biết ngay đương xứ (bây giờ - ở đây), không thể dùng ngôn ngữ diễn tả, không thể dùng ý thức biện biệt, càng không thể tìm cầu bên ngoài. Bằng trí huệ vượt thường nầy, Đức Phật biết tường tận bản thể của mọi sự vật, từ vô thủy đến vô chung, nên những lời Ngài nói ra đều là chân lý tuyệt đối.

Khoa học ngày càng phát triển, nên người tu Phật cũng cần có kiến thức thế học mới phù hợp với xã hội hiện đại. Nhân minh là một trong năm khả năng mà người hành Bồ tát hạnh phải trau dồi. Bên cạnh đó, kiến thức Phật học phải vững vàng để không đi lạc vào đường mê lối rẽ. Tuy nhiên, nếu chỉ chú trọng bằng cấp, xem đó là mục đích tu hành, thì ta đã sa vào mớ bòng bong chữ nghĩa mà nhà Thiền gọi là “sắn bìm”. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, ba tạng kinh điển đồ sộ là ngón tay chỉ mặt trăng chân lý, là thuyền bè đưa người qua bể khổ sinh tử. Nếu cứ chăm chú vào ngón tay thì bao giờ thấy mặt trăng, cứ ngồi trên thuyền mà không chèo thì bao giờ đến bờ? Chấp phương tiện làm cứu cánh là sự lầm lẫn đáng tiếc của người tu chúng ta trong đời hiện đại, có khi vì bằng cấp mà sinh phiền não, tị hiềm, thậm chí oán trách Bổn Sư, gây trở ngại trong tâm mình và ảnh hưởng không hay đến đại chúng; đường tu từ đó đi xuống mà không biết. Cho nên, người tu có khi không là học giả nhưng cần là - và phải là hành giả.

Nói tóm lại, chúng ta tu theo Đức Phật cần phát huy trí huệ, cả Trí hữu sưTrí vô sư. Giai đoạn đầu, ta học tập giáo lý, nghiên cứu kinh điển để biết rõ đường hướng tu hành, không lạc vào tà đạo; đồng thời, cần có kiến thức thế gian để chuẩn bị hành trang cho công cuộc hoằng pháp lợi sanh sau nầy. Nhưng Trí hữu sưkiến thức vay mượn từ bên ngoài, không phải của báu nhà mình, lại có tính hữu hạn tương đối, nên chỉ được xem là phương tiện hỗ trợ trong công phu. Chúng ta cần tiến theo lộ trình Tam vô lậu học, trực nhận tánh giác bản lai, thể nhập chân tánh, phát khởi Trí vô sư. Đó mới là viên ngọc như ý của chính mình, không vay mượn ai cũng không ai vay mượn được, mới là sự nghiệp chung thân. Trí huệ vô sư bừng sáng như mặt trời ra khỏi đám mây, xua tan bóng đêm vô minh từ bao đời kiếp, hành giả giác ngộ toàn triệt như Sa-môn Cồ-Đàm trong Đêm thành đạo. Giác ngộ trọn vẹn, hành giả thật sự giải thoát khỏi tám vạn bốn ngàn trần lao phiền não, khỏi ba cõi sáu đường của sinh tử luân hồi.

Đức Phật là Bậc Giác ngộ viên mãn, chư Tổ nối tiếp theo Ngài là những vị đã giác ngộ, chư Tăng Ni - trưởng tử Như Lai là những người kế thừa sự nghiệp hoằng truyền chánh pháp, thì Phật tử tại gia cũng không thể là những kẻ si mê. Dù chỉ như đốm lửa nhỏ hay ánh sáng đom đóm, chúng ta cũng phải làm phương tiện soi đường cho chính mình và cho người xung quanh đi theo dấu chân Đức Phật. Có phước duyên sâu dày được sống trong vòng giáo huấn của Ngài, chúng ta nên lựa chọn cho mình một pháp môn thích hợptinh tấn hành trì không gián đoạn. Khi nhận ra Phật tâm hằng hữu, phát khởi Trí vô sư, sống trọn vẹn bằng gia tài đồ sộ, ta mới thoát kiếp cùng tử lang thang trong luân hồi vô tận. Có như thế, ta mới không cô phụ bản hoài của chư Phật và không cô phụ tánh linh của chính mình.



[i]Chẳng lìa đương xứ thường lặng yên / Vừa khởi tâm tìm anh chẳng thấy.”


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17104)
Vượt qua một cây cầu dài và hơi bị rung lắc, bắc qua sông Falgu, chúng tôi đến khu vực được ngành du lịch Ấn Độ giới thiệu là làng Sujātā.
(Xem: 38675)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 21933)
Truyện Cổ Sự Tích Cứu Vật Phóng Sinh - Pháp sư Tịnh Không - Thích Phước Sơn dịch
(Xem: 22015)
Những Truyện Cổ Việt Nam Mang Màu Sắc Phật Giáo - Lệ Như Thích Trung Hậu, Sưu tầm & giới thiệu
(Xem: 69825)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 6892)
Ý tưởng về quyển sách này có từ việc tôi tình cờ đọc qua một quyển sách nhỏ có tên là “Món Quà Mang lại Bình An & Hạnh Phúc”
(Xem: 38749)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 44023)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 44108)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42923)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44433)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 23084)
Ở đây lời khuyên của Đức Phật đưa ra cho chúng ta là hãy sống thiện, chuyên cần và hành động một cách hiểu biết nếu chúng ta muốn giải quyết những vấn đề của chúng ta.
(Xem: 39228)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 21737)
Nhìn chiếc cổng tre hai cánh mở bám đầy rêu xanh, an nhiên giữa tuyết sương, năm tháng - bất chợt, người con nhớ đến một câu thơ của ai đó: Cửa sài hai cánh mở...
(Xem: 42406)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 35617)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 46535)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 30160)
Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang ấn hành... Nguyên Siêu
(Xem: 30831)
Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 1, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang ấn hành... Nguyên Siêu
(Xem: 26198)
Nếp Sống Tỉnh Thức Của Đức Đạt Lai Lạt Ma (Trọn bộ 2 tập), tác giả Thích Nữ Giới Hương, Nhà xuất bản Hồng Đức 2012
(Xem: 20365)
Chúng ta phải tạo ra cho mình một thứ tình thân ái mới mẻ hơn để giao tiếp với thiên nhiên. Trước đây chúng ta đã không làm tròn được bổn phận đó.
(Xem: 25580)
Đây là cuốn sách đầu tiên ghi lại lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu và ảnh hưởng của Phật Giáo đối với đời sống văn hóatâm linh của người Úc... Thích Nguyên Tạng
(Xem: 18494)
Vào nhà của đức Như-Lai, mặc áo của đức Như-Lai, ngồi chỗ của Như-Lai... HT. Thích Trí Quang
(Xem: 17125)
Nguyên tác: "Buddha The Healer", Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka; Dr. Ananda Nimalasuria; Phạm Kim Khánh dịch
(Xem: 40782)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 21726)
"Chuyện Tình Của Liên Hoa Hòa Thượng" được phóng tác từ một câu chuyện lịch sử trong quyển "Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong"... Thích Như Điển
(Xem: 25938)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 41442)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 24916)
Thập Bát La Hán tượng trưng cho tín ngưỡng đặc thù dân gian. Cuộc đời của các Ngài siêu nhiên kỳ bí nhưng rất mực gần gũi chúng sanh.
(Xem: 23787)
Sự Tích Phật A-di-đà và Bảy vị Bồ-tát là một tác phẩm ngắn, giới thiệu về cuộc đờihạnh nguyện của Phật A-di-đà và bảy vị Bồ-tát Đại Thừa, được tạp chí Từ Bi Âm biên soạn...
(Xem: 15063)
Nếu như những tôn giáo khác chú trọng quyền năng của đấng Sáng thế, đòi hỏi sự tuân phục và niềm tin tuyệt đối, thì Phật giáo, từ ngàn xưa, luôn đẫm tinh thần dân chủ.
(Xem: 19976)
Bằng kinh nghiệm của riêng tôi, tôi đã học được phương pháp hữu hiệu nhất để vượt qua khủng hoảng là sự tiếp xúc chặt chẽ và trao đổi giữa những người có niềm tin khác nhau...
(Xem: 37838)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 19095)
Ngõ Thoát - tức Phương Trời Cao Rộng 3, truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1996
(Xem: 17697)
Bụi Đường - tức Phương Trời Cao Rộng 2, truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1995, tái bản năm 1996
(Xem: 23540)
Núi Xanh Mây Hồng - Truyện vừa của Vĩnh Hảo, Khởi viết tại Sài Gòn 1980, hoàn tất tại Long Thành 1982
(Xem: 36330)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 40382)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 19506)
Đây là một trong số ba-mươi bài kinh trong tập Trung A Hàm do Christian Maes tuyển chọn để dịch thẳng từ tiếng Pa-li sang tiếng Pháp... Hoang Phong dịch
(Xem: 21715)
Ở trên khuôn viên của núi Mihintale hiện còn có một hang động và người ta cho rằng hang động ấy là nơi mà Tôn giả Mahinda đã ở lại đấy trong lần đầu tiên ngài đến Mihintale.
(Xem: 46183)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35951)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 28645)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 28891)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32200)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 26310)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 33436)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 24085)
Đại Hội Khoáng Đại kỳ IV được triệu tập vào các ngày 17, 18, 19/03/2011 tại Chùa Pháp Hoa, 20 Butler Ave, Pennington, SA 5013, Australia
(Xem: 24827)
Qua ký sự, tác giả giới thiệu những vùng đất tâm linh của Phật giáo đồng thời nói lên niềm cảm khái của mình trước các vùng đất thiêng liêng, và cảm xúc của ông về thế giới hiện đại.
(Xem: 54533)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant