Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hành Trạng Thượng Sĩ (The Superior Person)

17 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 10411)
Hành Trạng Thượng Sĩ (The Superior Person)

THE WISDOM WITHIN
Teaching and Poetry of
the Vietnamese Zen Master
Tue Trung Thuong Si (1230-1291)

Translated and Commented by Nguyen Giac
Thien Tri Thuc Publications California 9010

HÀNH TRẠNG THƯỢNG SĨ (The Superior Person)

The Superior Person

Tue Trung Thuong Sy (1230-1291) had several significant roles in thirteenth-century Vietnam: being a governor, he was one of the famous military generals who led resistance against three Mongolian invasions; being a layperson, he lived a life mixed with meditation, poetry and royal glory; and being a Zen master, he had a strong influence on the founder of the Truc Lam Zen School, which has become part of the Vietnamese culture. His religious name was Tue Trung, meaning The Wisdom Within. His title, given by King Tran Thanh Tong, was Thuong Sy, meaning The Superior Person. 

The biography here of Tue Trung Thuong Sy – usually called Tue Trung, for short -- is based mostly on a text written by King Tran Nhan Tong (1258-1308), who became a monk and founded a Zen school in Vietnam.

Thượng Sỹ

Tuệ Trung Thượng Sỹ (1230-1291) có nhiều vai trò quan trọng tại Việt Nam thế ký thứ mười ba: là một thống đốc, ngài là một trong các vị tướng nổi tiếng những người chỉ huy cuộc kháng chiến chống ba cuộc xâm lăng của Mông Cổ; là một cư sĩ, ngài sống một cuộc đời hòa lẫn với thiền định, thi cahào quang vương giả; và là một Thiền sư, ngài đã ảnh hưởng lớn đối với người sáng lập Thiền Phái Trúc Lâm, một dòng thiền đã trở thành một phần của văn hóa Việt Nam. Pháp danh ngài là Tuệ Trung, nghĩa là Trí Tuệ Bên Trong. Danh hiệu ngài, trao tặng bởi Vua Trần Thánh Tông, là Thượng Sỹ, có nghĩa là Bậc Cao Tột.

Tiểu sử nơi đây của Tuệ Trung Thượng Sỹ -- thường được gọi tắt là Tuệ Trung – dựa phần lớn vào một bản văn viết bởi Vua Trần Nhân Tông (1258-1308), người sau đó xuất giasáng lập một dòng Thiền tại Việt Nam.

Born in 1230, given the birth name of Tran Tung, Tue Trung was the elder son of Tran Lieu, who had the title of Kham Minh Tu Thien Thai Vuong. The people around Tue Trung were the most powerful in Vietnam at the time. King Tran Thanh Tong ceded the throne to Crown Prince Tran Kham, his Zen student who has been popularly known as King Tran Nhan Tong, and who later became a monk and founded the Truc Lam Zen School. Tue Trung was also the elder brother of Marshal Tran Hung Dao, the national hero worshipped by the Vietnamese people as a powerful saint.

Since childhood, Tue Trung was praised as brilliant and gentle. As the governor of Hong Lo (now Hai Duong Province), he repelled the Mongolian invaders twice, and got promoted as commander of the Thai Binh Seaport.

Interested in Buddhism from a young age, he was a man of character. After many conversations with Zen Master Phuoc Duong Tieu Dao, he understood the profound meaning, revered this old monk as teacher, and entered the joy of meditation every day. Uninterested in fame and power, he retired to the land given by the king, where he renamed the village of Tinh Bang as Van Nien.

Sinh năm 1230, được đặt tên là Trần Tung, Tuệ Trung là con trưởng của Khâm Minh Từ Thiện Thái Vương Trần Liễu. Những người chung quanh Tuệ Trung là những người quyền lực nhất Việt Nam thời đó. Vua Trần Thánh Tông nhường ngôi cho Thái Tử Trần Khảm, người theo học Thiền với Tuệ Trung và sau thường được biết với tên gọi là Vua Trần Nhân Tông, và là người về sau xuất giasáng lập Thiền Phái Trúc Lâm. Tuệ Trung cũng là anh cả của Tướng Trần Hưng Đạo, vị anh hùng quốc gia được dân tộc Việt Nam thờ như một vị thánh uy quyền.

Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.

Chuộng Phật Giáo từ thuở nhỏ, ngài là người có cá tính. Sau nhiều lần tham vấn Thiền Sư Phước Đường Tiêu Dao, ngài lãnh hội được yếu chỉ, dốc lòng thờ làm thầy, và lấy thiền duyệt làm cái vui hàng ngày. Không ưa công danh, ngài lui về đất vua phong tặng, và đổi tên làng Tịnh Bang lại là làng Vạn Niên.

 

He lived the life of a lay practitioner, mixed with common people, planted the seeds of dharma, and helped the learners. Those who came to ask for his dharma advice were all shown the profound meaning, and given some useful ways to calm the mind. His responses, however, were unique, flexible and different.

King Tran Thanh Tong, hearing rumors about his spiritual conversations, sent an envoy to invite him to the royal palace for dharma talks. The Zen master came, and gave explanation on the Way with words so profound and enlightening. Thus the king respected him as the Elder Dharma Brother, and gave him the title of the Superior Person. 

One day, the Queen Mother held a royal banquet, and showed surprise when she saw Tue Trung eating meat. 

“You practice meditation, and now you eat meat. How can you become Buddha?” asked the king’s mother.

“Buddha is Buddha,” replied Tue Trung. “And I am what I am. I don’t need to be Buddha. And Buddha doesn’t need to be me. You probably heard the words from old sages, ‘Manjusri is Manjusri; enlightenment is enlightenment.’” 

Ngài sống cuộc đời của một cư sĩ, hòa lẫn với dân thường, gieo hạt giống pháp, và dìu dắt các học nhân. Những người tới hỏi pháp ngài đều được chỉ chỗ cương yếu, và nói về những cách an tâm. Tuy nhiên, các giảng dạy của ngài lại rất độc đáo, linh động và khác lạ.

Vua Trần Thánh Tông, nghe đồn về các pháp thoại đầy thiền vị của ngài, đã gửi một sứ giả tới thỉnh ngài vào cung để thuyết pháp. Thiền Sư Tuệ Trung tới, và giảng pháp với ngôn ngữ thâm sâugiác ngộ. Vua mới tôn ngài là Sư Huynh, và cho ngài tước hiệu Thượng Sỹ.

Một hôm, Thái Hậu mở tiệc hoàng gia, và ngạc nhiên khi bà thấy ngài Tuệ Trung ăn thịt.

Thái Hậu hỏi, “Anh tu thiền, và bây giờ anh ăn thịt. Làm sao mà thành Phật nổi?”

Ngài Tuệ Trung đáp, “Phật là Phật, anh là anh. Anh không cần làm Phật, Phật không cần làm anh. Thái Hậu chẳng nghe cổ đức nói, ‘Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát’ đó sao?”

 

After the Queen Mother died, the king made a vegetarian offering ritual in the royal palace. In the ceremony, the king asked the honorable teachers each to make a short poem showing their explanation of Buddhism.

Taking paper and ink from King Tran Thanh Tong, Tue Trung wrote the following poem.

Seeing and understanding… Now I show my seeing and understanding,
just like rubbing the eyes to make monster.
After the rubbing is done and the monster gone,
all things shine bright unrestrictedly.

The king read the poem, and wrote down below.

All things, shining bright unrestrictedly,
also do the rubbing to make monster.
When you see monster, and don’t cling to it as monster,
that monster will vanish itself.

Tue Trung read and showed satisfaction.
Later, hearing the news that the king fell sick, Tue Trung wrote a mail to voice his concern. The king read the mail, and replied as follows.

Sau khi Thái Hậu từ trần, vua cúng chay ở cung điện. Nhân lễ khai đường, vua thỉnh các vị tôn túc mỗI vị làm một bài kệ ngắn để nói kiến giải về Đạo Phật.

Nhận giấy mực từ Vua Trần Thánh Tông, Tuệ Trung viết bài kệ sau.

Kiến giải trình kiến giải
Tợ ấn mắt làm quái
Ấn mắt làm quái rồi
Rõ ràng thường tự tại.

Nhà vua đọc xong, liền phê tiếp theo sau:

Rõ ràng thường tự tại
Cũng ấn mắt làm quái
Thấy quái chẳng thấy quái
Quái ấy ắt tự hoại.

Thượng Sĩ đọc, thầm nhận đó.
Sau vua kém vui, Thượng Sĩ viết thơ hỏi thăm bệnh. Vua đọc thơ, trả lời bằng bài kệ:

 

Feeling the heat, 
I am sweating all over the body;
However, the original diaper when my mother brought me into life is still dry.

Tue Trung read and showed sadness. Then the news came that the king got worse. Tue Trung urgently arrived in the capital, but King Tran Thanh Tong had already passed away.

One day, King Tran Nhan Tong asked him, “How can people break free from bad karma, when they have habits of eating meat and getting drunk?”

Tue Trung answered, “In case someone is standing and doesn’t know that the king suddenly is walking past behind him, and he throws something that hits the king. Is he scared? Is the king angry? Those two things are not related to each other. You should know that.”

Then Tue Trung continued with his two short poems here.

Hơi nóng hừng hực toát mồ hôi
Chiếc khố mẹ sanh chưa thấm ướt.

Tuệ Trung đọc, buồn bã. Rồi có tin nhà vua bệnh nặng thêm. Ngài Tuệ Trung khẩn cấp về kinh đô, nhưng Vua Trần Thánh Tông đã băng hà.

Một hôm, Vua Trần Nhân Tông hỏi ngài: 
“Chúng sanh do nghiệp uống rượu ăn thịt, làm sao thoát khỏi tội báo?”

Thượng Sĩ bảo cho biết rõ ràng:
 “Giả sử có người đứng xây lưng lại, chợt có vua đi qua sau lưng người kia thình lình hoặc cầm vật gì ném trúng vua, người ấy có sợ không? Vua có giận chăng? Như thế nên biết, hai việc này không liên hệ gì nhau.” 

Thượng Sĩ liền đọc hai bài kệ để dạy. 

All things are impermanent.
Having a doubt in mind will make a sin manifested.
Since the beginning of time, there has not been a thing.
Neither a seed nor a bud.

When you face the scenes every day,
just know that all scenes come from your mind.
Realizing that the mind and scenes are originally empty,
you will see the enlightenment in all places.

The asker, King Tran Nhan Tong, said, “Thus, for what reason we have to keep the precepts strictly?”

Tue Trung smiled in silence. King Tran Nhan Tong insisted an answer. Tue Trung made another two short poems.

Keeping precepts and having patience 
only invite sinfulness, not merit.
If you want to know beyond both sinfulness and merit, 
just live beyond both keeping precepts and having patience.

Just like someone climbing the tree, 
you are looking for danger, not aware that you are safe now.
If you don’t climb the tree, 
how could the wind and moon affect you? 

Tue Trung then told the king, “Don’t tell that to bad people.”

Vô thường các pháp hạnh 
Tâm nghi tội liền sanh
Xưa nay không một vật
Chẳng giống cũng chẳng mầm.
*
Ngày ngày khi đối cảnh
Cảnh cảnh từ tâm sanh.
Tâm cảnh xưa nay không
Chốn chốn ba-la-mật.

Vua Trần Nhân Tông hỏi tiếp, “Như vậy, công phu giữ giới trong sạch không chút xao lãng là để làm gì?”

Thượng Sĩ cười không đáp. Vua lại thỉnh cầu. Ngài lại nói hai bài kệ để ấn định đó:

Giữ giới cùng nhẫn nhục
Chuốc tội chẳng chuốc phước.
Muốn biết không tội phước
Chẳng giữ giới nhẫn nhục.
*
Như khi người leo cây
Trong an tự cầu nguy.
Như người không leo cây
Trăng gió có làm gì?

Ngài Tuệ Trung lại dặn nhà vua, “Chớ bảo cho người không ra gì biết.”

 

One day, being asked by King Tran Nhan Tong about the essence of Zen, Tue Trung replied, “Reflect inwardly to see the essence of yourself. Don’t follow other ways.”

King Tran Nhan Tong suddenly understood the path to go, and from then on revered Tue Trung as teacher.

Later, feeling a little sick, and not wanting to stay in his own room, Tue Trung chose to stay in the hall of Duong Chan Trang (Nurturing Truth Ranch). He put a wooden bed in the center of the emty hall, lay down on his right side, and closed his eyes.

His wife, companions, and servants cried out loud. Tue Trung opened his eyes, sat up, and asked for water to wash his hands and rinse his mouth. 
Then he said, “Birth and death are natural. Why do you cry and feel resentful, making noise around my true nature?” After those words, Tue Trung died gently. 

Born in 1230, and died in 1291, he only had few decades to live a life of a great military general, a great poet, and a great Zen master; however, his impact on Vietnamese history has been immense and lasted for many centuries. 

Một hôm, Vua Trần Nhân Tông hỏi về yếu chỉ Thiền Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ đáp:
“Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được.” (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.)

Vua Trần Nhân Tông hốt nhiên hiểu được lối đi, và từ đó thờ ngài Tuệ Trung làm thầy.

Sau có chút bệnh, không muốn ở trong phòng thất, ngài Tuệ Trung quyết định ra ở chính đường của Dưỡng Chân Trang. Ngài kê một giường gỗ giữa nhà trống, nằm nghiêng qua phải theo thế kiết tường, nhắm mắt lại.

Thê thiếp và người hầu khóc rống lên. Tuệ Trung mở mắt ngồi dậy, đòi nước súc miệng rửa tay, rồI quở nhẹ, “Sống chết là lẽ thường, đâu nên buồn thảm luyến tiếc, làm nhiễu động chân tánh ta.” Nói xong, Tuệ Trung an nhiên thị tịch

Sinh năm 1230, và từ trần năm 1291, ngài chỉ có vài thập niên để sống cuộc đời của một đại tướng, một đại thi sĩ, và một đại Thiền sư; tuy nhiên, ảnh hưởng của ngài trên lịch sử Việt Nam cực kỳ lớn lao, và kéo dài nhiều thế kỷ.

King Tran Nhan Tong was the Dharma Heir of Tue Trung Thuong Sy. The king later became a monk, and founded the Truc Lam Zen School, which quickly grew popular then, went up and down with social changes in over 700 years, and has been revived to be the largest Zen school now in Vietnam.

We should have a comment here. Some words from Tue Trung above were not in line with the Buddhist teachings that his askers learned. The Queen Mother and King Tran Nhan Tong were taught to practice vegetarianism, to hate the evil, and to grasp the good. If you follow a routine and don’t truly live the profound meaning, you will become a robot. Tue Trung just tried to take them out of the land of robots.

Also, some words needed to be added here to explain about keeping a same style in this book. All the Vietnamese poems and koans here are translations by Zen Master Thich Thanh Tu, while all other information has been cross-checked with other sources. In case readers want to have an overview on Vietnamese Zen first, please read The Teachings From Ancient Vietnamese Zen Masters. (link: http://thuvienhoasen.org/ZenAncientMasters.htm)

Vua Trần Nhân Tông là người nối pháp của Tuệ Trung Thượng Sỹ. Vua sau đó xuất gia, sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm, và thiền phái này mau chóng phát triển và hưng thịnh lúc đó, rồi thăng trầm với các biến đổi xã hội trong 700 năm qua, và rồi được hồi phục để trở thành dòng Thiền lớn nhất tại Việt Nam hiện nay.

Nên có một lời bình nơi đây. Ngài Tuệ Trung nói vài lời ngoài giáo nghĩa mà những người hỏi từng học. Thái Hậu và Vua Trần Nhân Tông được dạy phải ăn chay, ghét ác và ưa thiện. Nếu bạn làm theo một thói quen và không thực sự sống được diệu nghĩa, bạn sẽ trở thành một người máy rô-bô. Ngài Tuệ Trung muốn đưa họ ra khỏi vùng đất của rô-bô.

Có vài lời cần thêm nơi đây. Để thống nhất văn phong, tất cả các công án, thơ kệ Việt ngữ trong sách này là từ một nguồn, các bản dịch của Thiền Sư Thích Thanh Từ, trong khi mọi thông tin khác đều đối chiếu với các nguồn khác. Trường hợp độc giả muốn có cái nhìn tổng quan về Thiền Việt Nam trước, xin mời đọc cuốn The Teachings From Ancient Vietnamese Zen Masters. (link: http://thuvienhoasen.org/ZenAncientMasters.htm)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14847)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17775)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18206)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14975)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13171)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21129)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32550)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15295)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12339)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12828)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27470)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12127)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34911)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17728)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11803)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12638)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14563)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32449)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19451)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12966)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14080)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14263)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15310)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14134)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14119)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11950)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53137)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11649)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13913)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13806)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20678)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14308)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13428)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13605)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34139)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16205)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14066)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14195)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13547)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15891)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13499)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22945)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27720)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13891)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24929)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13940)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31306)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13856)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15553)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14954)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant