Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hành Trạng Thượng Sĩ (The Superior Person)

17 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 10426)
Hành Trạng Thượng Sĩ (The Superior Person)

THE WISDOM WITHIN
Teaching and Poetry of
the Vietnamese Zen Master
Tue Trung Thuong Si (1230-1291)

Translated and Commented by Nguyen Giac
Thien Tri Thuc Publications California 9010

HÀNH TRẠNG THƯỢNG SĨ (The Superior Person)

The Superior Person

Tue Trung Thuong Sy (1230-1291) had several significant roles in thirteenth-century Vietnam: being a governor, he was one of the famous military generals who led resistance against three Mongolian invasions; being a layperson, he lived a life mixed with meditation, poetry and royal glory; and being a Zen master, he had a strong influence on the founder of the Truc Lam Zen School, which has become part of the Vietnamese culture. His religious name was Tue Trung, meaning The Wisdom Within. His title, given by King Tran Thanh Tong, was Thuong Sy, meaning The Superior Person. 

The biography here of Tue Trung Thuong Sy – usually called Tue Trung, for short -- is based mostly on a text written by King Tran Nhan Tong (1258-1308), who became a monk and founded a Zen school in Vietnam.

Thượng Sỹ

Tuệ Trung Thượng Sỹ (1230-1291) có nhiều vai trò quan trọng tại Việt Nam thế ký thứ mười ba: là một thống đốc, ngài là một trong các vị tướng nổi tiếng những người chỉ huy cuộc kháng chiến chống ba cuộc xâm lăng của Mông Cổ; là một cư sĩ, ngài sống một cuộc đời hòa lẫn với thiền định, thi cahào quang vương giả; và là một Thiền sư, ngài đã ảnh hưởng lớn đối với người sáng lập Thiền Phái Trúc Lâm, một dòng thiền đã trở thành một phần của văn hóa Việt Nam. Pháp danh ngài là Tuệ Trung, nghĩa là Trí Tuệ Bên Trong. Danh hiệu ngài, trao tặng bởi Vua Trần Thánh Tông, là Thượng Sỹ, có nghĩa là Bậc Cao Tột.

Tiểu sử nơi đây của Tuệ Trung Thượng Sỹ -- thường được gọi tắt là Tuệ Trung – dựa phần lớn vào một bản văn viết bởi Vua Trần Nhân Tông (1258-1308), người sau đó xuất giasáng lập một dòng Thiền tại Việt Nam.

Born in 1230, given the birth name of Tran Tung, Tue Trung was the elder son of Tran Lieu, who had the title of Kham Minh Tu Thien Thai Vuong. The people around Tue Trung were the most powerful in Vietnam at the time. King Tran Thanh Tong ceded the throne to Crown Prince Tran Kham, his Zen student who has been popularly known as King Tran Nhan Tong, and who later became a monk and founded the Truc Lam Zen School. Tue Trung was also the elder brother of Marshal Tran Hung Dao, the national hero worshipped by the Vietnamese people as a powerful saint.

Since childhood, Tue Trung was praised as brilliant and gentle. As the governor of Hong Lo (now Hai Duong Province), he repelled the Mongolian invaders twice, and got promoted as commander of the Thai Binh Seaport.

Interested in Buddhism from a young age, he was a man of character. After many conversations with Zen Master Phuoc Duong Tieu Dao, he understood the profound meaning, revered this old monk as teacher, and entered the joy of meditation every day. Uninterested in fame and power, he retired to the land given by the king, where he renamed the village of Tinh Bang as Van Nien.

Sinh năm 1230, được đặt tên là Trần Tung, Tuệ Trung là con trưởng của Khâm Minh Từ Thiện Thái Vương Trần Liễu. Những người chung quanh Tuệ Trung là những người quyền lực nhất Việt Nam thời đó. Vua Trần Thánh Tông nhường ngôi cho Thái Tử Trần Khảm, người theo học Thiền với Tuệ Trung và sau thường được biết với tên gọi là Vua Trần Nhân Tông, và là người về sau xuất giasáng lập Thiền Phái Trúc Lâm. Tuệ Trung cũng là anh cả của Tướng Trần Hưng Đạo, vị anh hùng quốc gia được dân tộc Việt Nam thờ như một vị thánh uy quyền.

Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.

Chuộng Phật Giáo từ thuở nhỏ, ngài là người có cá tính. Sau nhiều lần tham vấn Thiền Sư Phước Đường Tiêu Dao, ngài lãnh hội được yếu chỉ, dốc lòng thờ làm thầy, và lấy thiền duyệt làm cái vui hàng ngày. Không ưa công danh, ngài lui về đất vua phong tặng, và đổi tên làng Tịnh Bang lại là làng Vạn Niên.

 

He lived the life of a lay practitioner, mixed with common people, planted the seeds of dharma, and helped the learners. Those who came to ask for his dharma advice were all shown the profound meaning, and given some useful ways to calm the mind. His responses, however, were unique, flexible and different.

King Tran Thanh Tong, hearing rumors about his spiritual conversations, sent an envoy to invite him to the royal palace for dharma talks. The Zen master came, and gave explanation on the Way with words so profound and enlightening. Thus the king respected him as the Elder Dharma Brother, and gave him the title of the Superior Person. 

One day, the Queen Mother held a royal banquet, and showed surprise when she saw Tue Trung eating meat. 

“You practice meditation, and now you eat meat. How can you become Buddha?” asked the king’s mother.

“Buddha is Buddha,” replied Tue Trung. “And I am what I am. I don’t need to be Buddha. And Buddha doesn’t need to be me. You probably heard the words from old sages, ‘Manjusri is Manjusri; enlightenment is enlightenment.’” 

Ngài sống cuộc đời của một cư sĩ, hòa lẫn với dân thường, gieo hạt giống pháp, và dìu dắt các học nhân. Những người tới hỏi pháp ngài đều được chỉ chỗ cương yếu, và nói về những cách an tâm. Tuy nhiên, các giảng dạy của ngài lại rất độc đáo, linh động và khác lạ.

Vua Trần Thánh Tông, nghe đồn về các pháp thoại đầy thiền vị của ngài, đã gửi một sứ giả tới thỉnh ngài vào cung để thuyết pháp. Thiền Sư Tuệ Trung tới, và giảng pháp với ngôn ngữ thâm sâugiác ngộ. Vua mới tôn ngài là Sư Huynh, và cho ngài tước hiệu Thượng Sỹ.

Một hôm, Thái Hậu mở tiệc hoàng gia, và ngạc nhiên khi bà thấy ngài Tuệ Trung ăn thịt.

Thái Hậu hỏi, “Anh tu thiền, và bây giờ anh ăn thịt. Làm sao mà thành Phật nổi?”

Ngài Tuệ Trung đáp, “Phật là Phật, anh là anh. Anh không cần làm Phật, Phật không cần làm anh. Thái Hậu chẳng nghe cổ đức nói, ‘Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát’ đó sao?”

 

After the Queen Mother died, the king made a vegetarian offering ritual in the royal palace. In the ceremony, the king asked the honorable teachers each to make a short poem showing their explanation of Buddhism.

Taking paper and ink from King Tran Thanh Tong, Tue Trung wrote the following poem.

Seeing and understanding… Now I show my seeing and understanding,
just like rubbing the eyes to make monster.
After the rubbing is done and the monster gone,
all things shine bright unrestrictedly.

The king read the poem, and wrote down below.

All things, shining bright unrestrictedly,
also do the rubbing to make monster.
When you see monster, and don’t cling to it as monster,
that monster will vanish itself.

Tue Trung read and showed satisfaction.
Later, hearing the news that the king fell sick, Tue Trung wrote a mail to voice his concern. The king read the mail, and replied as follows.

Sau khi Thái Hậu từ trần, vua cúng chay ở cung điện. Nhân lễ khai đường, vua thỉnh các vị tôn túc mỗI vị làm một bài kệ ngắn để nói kiến giải về Đạo Phật.

Nhận giấy mực từ Vua Trần Thánh Tông, Tuệ Trung viết bài kệ sau.

Kiến giải trình kiến giải
Tợ ấn mắt làm quái
Ấn mắt làm quái rồi
Rõ ràng thường tự tại.

Nhà vua đọc xong, liền phê tiếp theo sau:

Rõ ràng thường tự tại
Cũng ấn mắt làm quái
Thấy quái chẳng thấy quái
Quái ấy ắt tự hoại.

Thượng Sĩ đọc, thầm nhận đó.
Sau vua kém vui, Thượng Sĩ viết thơ hỏi thăm bệnh. Vua đọc thơ, trả lời bằng bài kệ:

 

Feeling the heat, 
I am sweating all over the body;
However, the original diaper when my mother brought me into life is still dry.

Tue Trung read and showed sadness. Then the news came that the king got worse. Tue Trung urgently arrived in the capital, but King Tran Thanh Tong had already passed away.

One day, King Tran Nhan Tong asked him, “How can people break free from bad karma, when they have habits of eating meat and getting drunk?”

Tue Trung answered, “In case someone is standing and doesn’t know that the king suddenly is walking past behind him, and he throws something that hits the king. Is he scared? Is the king angry? Those two things are not related to each other. You should know that.”

Then Tue Trung continued with his two short poems here.

Hơi nóng hừng hực toát mồ hôi
Chiếc khố mẹ sanh chưa thấm ướt.

Tuệ Trung đọc, buồn bã. Rồi có tin nhà vua bệnh nặng thêm. Ngài Tuệ Trung khẩn cấp về kinh đô, nhưng Vua Trần Thánh Tông đã băng hà.

Một hôm, Vua Trần Nhân Tông hỏi ngài: 
“Chúng sanh do nghiệp uống rượu ăn thịt, làm sao thoát khỏi tội báo?”

Thượng Sĩ bảo cho biết rõ ràng:
 “Giả sử có người đứng xây lưng lại, chợt có vua đi qua sau lưng người kia thình lình hoặc cầm vật gì ném trúng vua, người ấy có sợ không? Vua có giận chăng? Như thế nên biết, hai việc này không liên hệ gì nhau.” 

Thượng Sĩ liền đọc hai bài kệ để dạy. 

All things are impermanent.
Having a doubt in mind will make a sin manifested.
Since the beginning of time, there has not been a thing.
Neither a seed nor a bud.

When you face the scenes every day,
just know that all scenes come from your mind.
Realizing that the mind and scenes are originally empty,
you will see the enlightenment in all places.

The asker, King Tran Nhan Tong, said, “Thus, for what reason we have to keep the precepts strictly?”

Tue Trung smiled in silence. King Tran Nhan Tong insisted an answer. Tue Trung made another two short poems.

Keeping precepts and having patience 
only invite sinfulness, not merit.
If you want to know beyond both sinfulness and merit, 
just live beyond both keeping precepts and having patience.

Just like someone climbing the tree, 
you are looking for danger, not aware that you are safe now.
If you don’t climb the tree, 
how could the wind and moon affect you? 

Tue Trung then told the king, “Don’t tell that to bad people.”

Vô thường các pháp hạnh 
Tâm nghi tội liền sanh
Xưa nay không một vật
Chẳng giống cũng chẳng mầm.
*
Ngày ngày khi đối cảnh
Cảnh cảnh từ tâm sanh.
Tâm cảnh xưa nay không
Chốn chốn ba-la-mật.

Vua Trần Nhân Tông hỏi tiếp, “Như vậy, công phu giữ giới trong sạch không chút xao lãng là để làm gì?”

Thượng Sĩ cười không đáp. Vua lại thỉnh cầu. Ngài lại nói hai bài kệ để ấn định đó:

Giữ giới cùng nhẫn nhục
Chuốc tội chẳng chuốc phước.
Muốn biết không tội phước
Chẳng giữ giới nhẫn nhục.
*
Như khi người leo cây
Trong an tự cầu nguy.
Như người không leo cây
Trăng gió có làm gì?

Ngài Tuệ Trung lại dặn nhà vua, “Chớ bảo cho người không ra gì biết.”

 

One day, being asked by King Tran Nhan Tong about the essence of Zen, Tue Trung replied, “Reflect inwardly to see the essence of yourself. Don’t follow other ways.”

King Tran Nhan Tong suddenly understood the path to go, and from then on revered Tue Trung as teacher.

Later, feeling a little sick, and not wanting to stay in his own room, Tue Trung chose to stay in the hall of Duong Chan Trang (Nurturing Truth Ranch). He put a wooden bed in the center of the emty hall, lay down on his right side, and closed his eyes.

His wife, companions, and servants cried out loud. Tue Trung opened his eyes, sat up, and asked for water to wash his hands and rinse his mouth. 
Then he said, “Birth and death are natural. Why do you cry and feel resentful, making noise around my true nature?” After those words, Tue Trung died gently. 

Born in 1230, and died in 1291, he only had few decades to live a life of a great military general, a great poet, and a great Zen master; however, his impact on Vietnamese history has been immense and lasted for many centuries. 

Một hôm, Vua Trần Nhân Tông hỏi về yếu chỉ Thiền Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ đáp:
“Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được.” (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.)

Vua Trần Nhân Tông hốt nhiên hiểu được lối đi, và từ đó thờ ngài Tuệ Trung làm thầy.

Sau có chút bệnh, không muốn ở trong phòng thất, ngài Tuệ Trung quyết định ra ở chính đường của Dưỡng Chân Trang. Ngài kê một giường gỗ giữa nhà trống, nằm nghiêng qua phải theo thế kiết tường, nhắm mắt lại.

Thê thiếp và người hầu khóc rống lên. Tuệ Trung mở mắt ngồi dậy, đòi nước súc miệng rửa tay, rồI quở nhẹ, “Sống chết là lẽ thường, đâu nên buồn thảm luyến tiếc, làm nhiễu động chân tánh ta.” Nói xong, Tuệ Trung an nhiên thị tịch

Sinh năm 1230, và từ trần năm 1291, ngài chỉ có vài thập niên để sống cuộc đời của một đại tướng, một đại thi sĩ, và một đại Thiền sư; tuy nhiên, ảnh hưởng của ngài trên lịch sử Việt Nam cực kỳ lớn lao, và kéo dài nhiều thế kỷ.

King Tran Nhan Tong was the Dharma Heir of Tue Trung Thuong Sy. The king later became a monk, and founded the Truc Lam Zen School, which quickly grew popular then, went up and down with social changes in over 700 years, and has been revived to be the largest Zen school now in Vietnam.

We should have a comment here. Some words from Tue Trung above were not in line with the Buddhist teachings that his askers learned. The Queen Mother and King Tran Nhan Tong were taught to practice vegetarianism, to hate the evil, and to grasp the good. If you follow a routine and don’t truly live the profound meaning, you will become a robot. Tue Trung just tried to take them out of the land of robots.

Also, some words needed to be added here to explain about keeping a same style in this book. All the Vietnamese poems and koans here are translations by Zen Master Thich Thanh Tu, while all other information has been cross-checked with other sources. In case readers want to have an overview on Vietnamese Zen first, please read The Teachings From Ancient Vietnamese Zen Masters. (link: http://thuvienhoasen.org/ZenAncientMasters.htm)

Vua Trần Nhân Tông là người nối pháp của Tuệ Trung Thượng Sỹ. Vua sau đó xuất gia, sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm, và thiền phái này mau chóng phát triển và hưng thịnh lúc đó, rồi thăng trầm với các biến đổi xã hội trong 700 năm qua, và rồi được hồi phục để trở thành dòng Thiền lớn nhất tại Việt Nam hiện nay.

Nên có một lời bình nơi đây. Ngài Tuệ Trung nói vài lời ngoài giáo nghĩa mà những người hỏi từng học. Thái Hậu và Vua Trần Nhân Tông được dạy phải ăn chay, ghét ác và ưa thiện. Nếu bạn làm theo một thói quen và không thực sự sống được diệu nghĩa, bạn sẽ trở thành một người máy rô-bô. Ngài Tuệ Trung muốn đưa họ ra khỏi vùng đất của rô-bô.

Có vài lời cần thêm nơi đây. Để thống nhất văn phong, tất cả các công án, thơ kệ Việt ngữ trong sách này là từ một nguồn, các bản dịch của Thiền Sư Thích Thanh Từ, trong khi mọi thông tin khác đều đối chiếu với các nguồn khác. Trường hợp độc giả muốn có cái nhìn tổng quan về Thiền Việt Nam trước, xin mời đọc cuốn The Teachings From Ancient Vietnamese Zen Masters. (link: http://thuvienhoasen.org/ZenAncientMasters.htm)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26248)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21660)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23428)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14751)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12957)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19865)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13828)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22782)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 11995)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12432)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 24068)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13741)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21096)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25692)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19263)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23257)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21410)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18343)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 14011)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15477)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17895)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21985)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17568)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 30971)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 28084)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14884)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17173)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22637)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28270)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 14032)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 17069)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22323)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14184)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21497)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20837)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28548)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 15077)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26618)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19304)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31638)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30676)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 21029)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26245)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23605)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25650)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25428)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19745)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18504)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17807)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 19076)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant