Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 2 Chánh Kiến Trong Cuộc Sống Hàng Ngày

15 Tháng Tư 201400:00(Xem: 4423)
Chương 2 Chánh Kiến Trong Cuộc Sống Hàng Ngày

ĐẠO PHẬT TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY  
Tác giả: Nina Van Gorkom

Chương 2 
Chánh kiến trong cuộc sống hàng ngày


Giáo lý của Đức Phật ảnh hưởng như thế nào đối với hành động của mọi người? Bằng cách nào Giáo lý của Đức Phật có thể giúp mọi người làm việc thiện một cách hiệu quả? Liệu có thể làm việc thiện bởi vì một người có quyền năng nói với chúng ta: “Hãy xả ly và làm việc thiện” hay không?

Từ kinh nghiệm, chúng ta biết rằng một tấm gương tốt có thể hỗ trợ ở một mức độ nào đó, nhưng nguồn gốc thực sự của nghiệp thiện là ở bên trong chúng ta: Tâm thức của chúng ta sẽ xác định hành động của chúng ta. Nếu ai đó muốn hết sức giúp đỡ người khác, người ấy nên hiểu bản thân mình trước đã. Người ấy nên hiểu những nguyên nhân nào khiến người ấy hành động theo cách này hay cách kia. Nếu người ấy phát triển hiểu biết đúng về các nguyên nhân này, người ấy sẽ có thể có thêm thiện pháp trong cuộc sống và có thể giúp đỡ người khác theo cách hiệu quả nhất.

Tâm là nguồn gốc mà từ đó nghiệp sẽ được thực hiện; vì vậy không thể xác định mức độ của thiện pháp chỉ bằng vẻ bề ngoại của các việc làm. Có nhiều mức độ thiện pháp tùy thuộc vào loại tâm thức nào thúc đẩy nghiệp thiện.

Một số người đưa tiền cho người nghèo, nhưng điều đó không có nghĩa là không có ngã mạn hay các động cơ ích kỷ khác. Những người khác có thể cho mà không có ngã mạn, nhưng vẫn có thể có dính mắc: họ chỉ cho những người mà họ thích. Có những người cho với tâm từ trong sạch, không có bất kỳ suy nghĩ dính mắc nào. Đó là một cách bố thí thiện hơn.

Chúng ta có thể phân vân liệu việc nghiên cứu quá chi tiết như vậy có cần thiết không. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta sẽ thấy rằng rất hữu ích khi biết các loại citta khác nhau và biết loại citta nào thúc đẩy loại hành động nào. Citta thì luôn thay đổi, nối tiếp nhau rất nhanh. Nếu chúng ta biết phân biệt các loại citta khác nhau, chúng ta sẽ thấy ngay cả khi chúng ta làm việc thiện, vẫn có tâm bất thiện ngay sau khi tâm thiện vừa diệt đi.

“Thiện” được dịch từ từ “kusala” trong tiếng Pali. Một nghiệp thiện, theo nghĩa rộng nhất, là một việc làm không gây hại cho bản thân cũng như người khác tại khoảnh khắc việc đó được làm và sau đó.

Trong Kinh Bahitika (Trường bộ kinh Tập II, Mục 88), chúng ta đọc về những việc làm thiện, lời nói thiện và suy nghĩ thiện. Đức vua Pasenadi đã hỏi Đại đức Ananda về bản chất của những việc làm thiện và bất thiện. Đối với những việc làm thiện hay thiện thân hành, chúng ta đọc đoạn hội thoại sau:

“Thưa Thưa Tôn giả, thế nào là thiện thân hành

“Thưa Đại vương, phàm thân hành nào không có tội”

“Thưa Tôn giả, thế nào là thân hành không có tội?”

“Thưa Đại vương, phàm thân hành nào không có hại”

“Thưa Tôn giả, thế nào là thân hành không có hại?”

“Thưa Đại vương, phàm thân hành nào có lạc báo”

“Thưa tôn giả, thế nào là thân hành có lạc báo ?”

“Thưa Đại vương, phàm thân hành nào không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, từ nơi thân hành ấy, các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng…”

Đoạn hội thoại tương tự cũng nói về thiện khẩu nghiệpthiện ý nghiệp. Những từ này để chỉ hàm ý của thiện hay “kusala” theo nghĩa rộng nhất. Có nhiều loại và mức độ của kusala. Trong phát triển “chánh kiến” hay trí tuệ, có thể có kusala ở mức độ cao hơn.

Trí tuệ hay hiểu biết được dịch từ từ Pali là “paññå”. Paññå không chỉ có nghĩa là kiến thức thu được từ nghiên cứu sách vở, paññå còn bao gồm cả tuệ giác, hiểu biết đúng về các thực tại trong cuộc sống hàng ngày. Paññå có thể được phát triển trong cuộc sống hàng ngày. Khi paññå đi kèm với tâm thiện, kusala citta, sẽ có mức độ thiện cao hơn. Có nhiều mức độ paññå và mỗi mức độ sẽ mang đến kết quả tương ứng.

Cách tiếp cận tiêu biểu của Phật giáosuy xét và hay biết các hiện tượng tinh thầnhiện tượng vật chất khác nhau được kinh nghiệm qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Nếu chúng ta chưa quen với cách tiếp cận này, chúng ta có thể cảm thấy bối rối lúc đầu. Tuy nhiên, sau khi chúng ta đã có sự suy xét hơn về các hiện tượng thân và tâm, chúng ta sẽ nhận ra rằng chỉ nhờ như vậy mới có thể hiểu được các cách thức hành xử khác nhau của bản thân mình và những người khác, và để biết loại nhân nào sẽ mang đến kết quả nào trong cuộc sống. Sẽ không có nghĩa gì khi nói về các thực tại một cách mơ hồ, chung chung, bởi vì cái hiểu thực sự về các kinh nghiệm trong cuộc sống của chúng ta không bao giờ có thể phát triển được bằng cách đó.

Có người nói với tôi về một vị sư giảng pháp theo một cách giúp được nhiều cho mọi người trong cuộc sống hàng ngày. Khi tôi hỏi rằng, vị sư đó đã giảng những gì, câu trả lời là vị ấy giảng về “citcai”. “Citcai” là một từ tiếng Thái để chỉ “trạng thái tâm”, tiếng Pali là citta. Vị sư này đã có cách tiếp cận cuộc sống đúng đắn. Chúng ta nên noi theo tấm gương của Đức Phật; chúng ta không nên chỉ nói mọi người làm việc thiện, mà chúng ta còn nên dạy cho họ biết làm việc thiện như thế nào. Để biết làm việc thiện như thế nào, chúng ta nên quay về với nguồn gốc của việc thiện: đó chính là trạng thái tinh thần hay “citta”. Sử dụng từ Pali “citta” sẽ thích hợp hơn là dịch từ tiếng Pali sang, vì từ được dịch không thể hiện đủ hàm ý tương ứng. Chẳng hạn, từ “citta” được dịch sang tiếng Anh thành “trạng thái tâm” hay “trạng thái tinh thần” ám chỉ cái gì đó trường tồn, không thay đổi. Nhưng đó không phải là đặc tính của citta. Khi chúng ta được học thêm về các citta, chúng ta sẽ nhận thấy rằng không có citta nào kéo dài, dù chỉ một giây. Mỗi citta đều sinh rồi diệt ngay, được nối tiếp bới citta tiếp theo. Các citta hình thành nên cuộc sống của chúng ta và của những người khác; chúng tạo duyên cho hành động của chúng ta trong cuộc đời.

Nhiều người không quen cách tiếp cận này; họ quen nhìn vẻ bề ngoài của các hiện tượng. Các nhà khoa học đi đầu trong việc nghiên cứu thế giới bên ngoài, nhưng biết rất ít cái gì đang diễn ra bên trong con người. Mọi người quen chú ý đến mọi thứ họ thấy và nghe, nhưng họ không quen để ý đến nhãn thứcnhĩ thức. Họ không nghĩ đến citta đang thực hiện chức năng thấy và nghe.

Nhãn thứcnhĩ thức là các thực tạivì vậy, việc biết hơn về chúng là rất quan trọng. Mảng Giáo lý của Đức Phật phân tích và giải thích tường tận về các hiện tượng vật chấttinh thần được gọi là “Vi diệu pháp” (Abhidhamma).

Abhidhamma đề cập đến tất cả những gì là thực. Nghiên cứu Abhidhamma có thể làm thay đổi cuộc đời chúng ta.

Nhiều người Thái đã nghe giảng về Abhidhamma, không chỉ những người học trung học và đại học, mà còn có cả những người không được học hành nhiều. Tôi đã biết đến những trường hợp mà qua việc nghiên cứu các citta khác nhau đã giúp họ có được một cuộc sống thiện hơn. Tôi nghe có người có xu hướng cảm thấy muốn trả thù người khác, nhưng người ấy đã dần vượt qua cảm giác ấy bằng cách hiểu những cảm giác ấy là gì. Nhiều người Thái biết về các thực tại được dạy trong Abhidhamma, và học áp dụng hiểu biết của mình trong cuộc sống hàng ngày. Người nước ngoài thường không được nghe về những điều này, vì người ta thường không nói về Abhidhamma với họ. Các trạng thái tinh thần bất thiện hay “akusala cittas” và trạng thái tinh thần thiện hay “kusala citta” là các thực tại trong cuộc sống hàng ngày. Để biết hơn về những thực tại này, chúng ta nên cố gắng hiểu về bản thân mình trước. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng chúng ta phải đợi hết cả cuộc đời mình trước khi chúng ta có thể bắt đầu giúp đỡ người khác. Ngay cả những người mới bắt đầu hiểu mọi thứ như chúng là vẫn có thể giúp người khác có được cái hiểu đúng đắn.

Paññå, trí tuệ hay sự hiểu biết, thì đối nghịch với vô minh, gốc rễ của mọi phiền nãođau khổ. Paññå rất quan trọng trong phát triển kusala citta. Có thể làm việc thiện mà không có paññå, nhưng nếu có hiểu biết về cái gì là bất thiện và cái gì là thiện, và hiểu nghiệp bất thiện và nghiệp thiện sẽ mang đến kết quả gì, chúng ta có thể sẽ có một cuộc sống thiện hơn. Vì vậy, phát triển paññå mang đến lợi ích lớn lao cho cả bản thân chúng ta và người khác.

Có nhiều mức độ paññå. Khi một vị thầy giải thích cho học trò rằng kusala citta với lòng biết ơn hay sự chân thành sẽ mang đến kết quả tốt lành và rằng nghiệp bất thiện do tham lam hay sân hận thúc đẩy sẽ mang đến kết quả không tốt lành, cách giải thích như vậy có thể là nhân duyên cho họ có mức độ paññå nào đó. Với paññå, họ có thể phát triển kusala citta và làm được thêm các thiện nghiệp.

Có mức độ paññå cao hơn khi mọi người nhận ra sự vô thường của tất cả mọi thứ họ hưởng thụ trong cuộc sống. Khi mọi người thấy cuộc đời con người ngắn ngủi như thế nào, họ sẽ cố gắng không dính mắc quá nhiều vào những thứ dễ chịu. Hiểu này sẽ khuyến khích họ có thêm lòng quảng đại và sẵn sàng giúp đỡ người khác hơn. Họ sẽ bớt vị kỷ.

Những người có mức độ paññå này có thể thay đổi cách sốngthoải mái với cuộc sống mà không cần bất kỳ sự xa sỉ nào. Những người khác có thể quyết định “xuất gia”, họ có thể quyết định trở thành một vị sư. Cuộc sống của một vị sư là cuộc sống không dễ dàng. Vị ấy phải sống không có gia đình và là người “hài lòng với ít ỏi”. Trong Kinh sáu thanh tịnh (Trung bộ kinh Tập III, số 112), chúng ta đọc rằng Đức Phật nói về các tì kheo đã tuyên bố về sự từ bỏ thế gian của mình như sau:

Chư Hiền, một thời gian sau, tôi từ bỏ tài sản nhỏ hay từ bỏ tài sản lớn, từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay từ bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, và xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình…

Đức Phật đã giải thích rằng con người quá dính mắc vào những gì cảm nhận qua mắt, tai, mũi, lưới và thân. Ngài nói về “Năm dục trưởng dưỡng”. Chúng ta đọc trong Kinh Subha (Trung bộ kinh Tập II, số 99) rằng Đức Phật đã nói với Subha về năm dục trưởng dưỡng:

Này Thanh niên Bà-la-môn, có năm dục trưởng dưỡng này. Thế nào là năm? Các sắc do mắt nhận thức, sắc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn; tiếng do tai nhận thức… hương do mũi nhận thức… vị do lưỡi nhận thức… xúc do thân nhận thức khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Này Thanh niên Bà-la-môn, như vậy là năm dục trưởng dưỡng. Này Thanh niên Bà-la-môn, Bà-la-môn Pokkharasati thuộc dòng họ Upamanna, trú ở rừng Subhaga bị trói buộc, bị đam mê, bị tham trước bởi năm dục trưởng dưỡng này, thụ hưởng chúng mà không thấy sự nguy hiểm, không soi thấu sự thoát ly khỏi chúng…

Chúng ta muốn có những cảm nhận giác quan dễ chịuchúng taxu hướng quá coi trọng chúng. Chúng ta bị hấp dẫn bởi những gì chúng ta thấy hay nghe đến nỗi chúng ta quên rằng cảm nhận giác quan không phải là hạnh phúc thực sự. Trong Kinh Magandiya (Trung bộ kinh tập II, số 75), chúng ta đọc rằng Đức Phật đã nói với Magandiya:

Này Magandiya, Ta thuở trước, khi còn là tại gia, Ta sống hưởng thụ một cách đầy đủ, một cách sung mãn, năm dục trưởng dưỡng, … Rồi Ta sau một thời gian, sau khi như chơn biết được sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các dục vọng, sau khi đoạn tận dục ái, sau khi trừ diệt nhiệt não của các dục, Ta trú với khát ái được đoạn trừ, với nội tâm an tịnh. Rồi Ta thấy các chúng sanh khác, chưa xả ly tham ái đối với các dục đang bị các dục ái nhai nghiến, đang bị dục nhiệt não thiêu đốt, đang chạy theo các dục. Ta không ước vọng được như họ; ở đây, Ta không ham thích…

Những người hiểu rằng có hạnh phúc lớn hơn cả sự thích thúchúng ta có thể hưởng thụ từ ngũ dục có thể phát triển sự an tịnh hay “samatha”. Sự an tịnh được phát triển trong samatha là sự giải phóng tạm thời khỏi tham, sân và các phiền não khác. Có nhiều đề mục thiền của samatha, như niệm ân Đức Phật, chánh niệm trên hơi thở hay tâm từ. Tùy thuộc vào tích lũy của mỗi người mà chọn đề mục thiền nào để tạo duyên cho sự an tịnh. Samatha không phải là việc chỉ chú tâm trên một đề mục. Điều quan trọng là hiểu biết đúng về đề mục thiền và về cách đạt được sự an tịnh, cái là thiện pháp, nhờ vào đề mục thiền. Nếu chúng ta không biết sự khác biệt giữa kusala citta và akusala citta, chúng ta dường như coi sự dính mắc vào sự tĩnh lặng là kusala –thiện pháp và khi đó, samatha không thể được phát triển. Chúng ta phải biết đặc tính của sự an tịnhthiện pháp thực sự, khác với bất thiện pháp. Khi đó có thể có nhân duyên cho sự an tịnh hơn. An tịnh trong samatha có thể đạt đến mức độ cao đến mức chúng ta hoàn toàn bị hút chặt vào đề mục thiền. Có những giai đoạn khác nhau của sự an tịnh hay còn gọi là các tầng thiền – “jhåna”. Trong jhåna, chúng ta không nhận được các cảm giác qua năm căn và vì vậy, tại giây phút đó, chúng ta không bị chúng chi phối. Chúng ta hưởng thụ một hạnh phúc cao hơn. Ở giai đoạn jhåna cao nhất, chúng ta đạt được trạng thái tâm yên tĩnh hơn cho đến khi không còn cảm thấy hỷ lạc nữa; chúng ta vượt qua cảm giác hạnh phúc và thay vào đó chỉ có tâm xả. Tuy nhiên, khi citta không còn là jhånacitta, lại có các cảm nhận giác quan.

Samatha là một cách vun bồi thiện pháp. Những người thực hành samatha có thể trở nên rất an bình và dễ mến. Họ có thể mang đến nhiều cảm giác dễ chịu cho những người luôn bất an. Tuy nhiên, trong samatha, phiền não vẫn chưa được tận diệt. Mặc dù chúng ta không còn bị ngũ dục chi phối trong suốt thời gian nhập thiền, nhưng chúng ta vẫn còn dính mắc vào chúng khi citta không còn là jhånacitta nữa. Jhåna thì không trường tồn; chúng là vô thường. Hơn nữa, có sự dính mắc vi tế hơn, sự dính mắc vào hỷ lạc của jhånas. Chúng ta có thể nghĩ rằng chúng ta sẽ không còn dính mắc khi chúng ta không đắm chìm trong ngũ dục. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể dính mắc vào jhåna – mà chẳng hề liên quan đến ngũ dục, chúng ta có thể dính mắc vào cảm thọ lạc hoặc tâm xả đi kèm với jhånacitta.

Để phát triển samatha, paññå là rất cần thiết, nhưng loại paññå này không thể tận diệt phiền não. Có một mức độ paññå cao hơn có thể tận diệt mọi phiền não, kể cả những loại dính mắc vi tế nhất. Paññå này được phát triển trong “thiền minh sát” hay “vipassanå”. Trong vipassanå, paññå sẽ dần dần diệt trừ vô minh, nguồn gốc của mọi phiền não. Chúng ta sẽ học thêm về các loại thực tại xuất hiện thông qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý căn tại bất kỳ khoảnh khắcc nào. Chúng ta biết quá ít về những thứ thông thường nhất trong cuộc sống hàng ngày. Chúng ta hay biết về cử động của thân trong một ngày được bao nhiêu? Chúng ta hay biết được bao nhiêu về các hiện tượng trên thân, như cái cứng, cái mềm trong khi chúng ta co duỗi tay, hay khi chúng ta mấp máy môi để nói? Chúng ta không thực sự biết âm thanh là gì, cái nghe là gì hay cái gì chúng ta coi là “ta” trong khi đang nghe. Chúng ta không biết về các hiện tượng xuất hiện tại giây phút hiện tại.

Khi chúng ta bị đắm chìm vào vẻ bề ngoàichi tiết của mọi thứ, chúng ta không thể hay biết các thực tại ở giây phút hiện tại. Chừng nào chúng ta còn bị cuốn theo việc thích hay không thích những gì chúng ta thấy và nghe, chừng đó chưa thể thấy mọi thứ như chúng là. Đức Phật đã tỉnh thức hoàn toàn và Ngài có tuệ giác hoàn hảo về mọi loại hiện tượng tinh thầnvật chất khác nhau. Vì vậy, Ngài có thể tự gọi mình là “Bậc toàn giác”; Ngài hoàn toàn giác ngộ về sự thật. Chúng ta cũng nên giác ngộ về sự thật.

Trong vipassanå, paññå sẽ phát triển dần dần và nó sẽ biết mọi thứ như chúng là. Bằng việc hay biết về thực tại đang xuất hiện tại giây phút hiện tại, chúng ta sẽ học rằng có hai loại thực tại: hiện tượng vật chất hay sắc (rúpa) và hiện tượng tinh thần hay danh (nåma). Rúpa thì không biết cái gì cả, trong khi nåma kinh nghiệm cái gì đó; nó kinh nghiệm một đối tượng. Chẳng hạn, đối tượng thị giác là rúpa; nó không biết cái gì cả. Cái thấy là một loại nåma; nó kinh nghiệm một đối tượng: đối tượng thị giác. Cái nghe và suy nghĩ là những loại nåma khác, khác với cái thấy. Có nhiều loại nåma và rúpa khác nhau, và trong vipassanå, chúng ta học kinh nghiệm đặc tính của chúng

Trong phát triển vipassanå, đặc tính vô thường của nåmas và rúpas cần phải được hay biết trực tiếp. Trước kia, chúng ta có thể suy xét về sự vô thưởng của mọi thứ trong cuộc sống. Suy xét về sự thậtcần thiết, nhưng nó không giống như hay biết trực tiếp về sự vô thường của mọi thực tại trong và xung quanh bản thân mình. Khi mới bắt đầu, sự sinh diệt của nåma và rúpa cũng chưa thể được nhận biết. Tuy nhiên, nếu chúng ta học hay biết về các đặc tính khác nhau của nåma và rúpa xuất hiện một lần tại một thời điểm, và nếu chúng ta nhận ra rằng mỗi một nåma và rúpa xuất hiện bây giờ đều khác với nåma và rúpa trước đó, chúng ta sẽ bớt xu hướng suy nghĩ rằng nåma và rúpa là trường tồn, và chúng ta sẽ bớt xu hướng coi chúng là “ta”.

Trong Đại kinh mãn nguyện (Trung bộ kinh Tập III, số 109), chúng ta đọc rằng Đức Phật, khi ngự tại gần Savatthi trong Lộc mẫu Giảng đường ở Đông Viên, đã nói với các tì kheo:

“Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, sắc là thường hay vô thường?”

Vô thường, bạch Thế Tôn”

“ Những gì vô thường là khổ hay lạc?”

“ Là khổ, bạch Thế Tôn”

“ Những gì vô thường, khổ, bị biến hoại, có hợp lý chăng khi xem : “Cái này của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi ?”

“ Thưa không vậy, bạch Thế Tôn”

Đức Phật đã hỏi tương tự như vậy về các hiện tượng tinh thần.

Trong Kinh Thân hành niệm (Trung bộ kinh Tập III, số 119), chúng ta đọc rằng Đức Phật, khi ngự ở gần Savatthi, tại Động Jeta, đã nói với các tì kheo về chánh niệm trên thân và về những lợi ích của nó. Có đoạn nói như sau:

Vị ấy là người nhiếp phục được Lạc và bất lạc, và bất lạc (và lạc) không nhiếp phục vị ấy. Vị ấy là người nhiếp phục được khiếp đảm sợ hãi khi khởi lên, và khiếp đảm sợ hãi không nhiếp phục vị ấy. Vị ấy kham nhẫn được lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, mặt trời, các loài rắn rết, các cách nói khó chịu, khó chấp nhận; vị ấy có khả năng chịu đựng được những cảm thọ về thân khởi lên, khổ đau, nhói đau, thô bạo, chói đau, bất khả ý, bất khả ái, đưa đến chết điếng…

Chúng ta sẽ dần học bớt dính mắc và giận dữ hay sân hận khi chúng ta nhận ra rằng chỉ có các loại nåma khác nhau sinh khởi bởi nhân duyên và rồi lại diệt đi ngay lập tức.

Chúng ta không nên đợi khi đã già hay được nghỉ hưu mới phát triển tuệ giác, hay chánh kiến, về các thực tại. Khi chúng ta phát triển trí tuệ này, chúng ta sẽ biết hơn về bản thân mình, chúng ta sẽ hay biết thường xuyên hơn về các giây phút akusala citta sinh khởi, ngay cả trong khi chúng ta đang làm việc thiện. Ngã mạn về việc thiện của mình có thể sinh khởichúng ta có thể mong đợi được đền đáp cái gì đó từ việc thiện ấy, như sự khen ngợi hay danh tiếng Khi chúng ta dần thấy rõ hơn rằng chỉ có nåma và rúpa sinh khởi bởi nhân duyên, sẽ bớt dính mắc vào khái niệm về một cái “tôi” thực hiện những nghiệp thiện hay bất thiện. Khi có bớt dính mắc vào tự ngã, các việc thiện sẽ càng trở nên trong sạch hơn. Paññå được phát triển trong vipassanå là chi “chánh kiến” của Bát chánh đạocon đường dẫn tới niết bàn. Tất cả mọi người đều phải tự mình bước đi trên con đường này. Chúng ta chỉ có thể làm trong sạch bản thân mình. Chúng ta không thể nhờ người khác làm trong sạch; người khác cũng chỉ có thể giúp chúng ta tìm thấy chánh đạo. Sẽ không có thế giới an bình chừng nào còn có tham, sân và si. Cần tham gia các tổ chức thế giới nhằm thúc đẩy hòa bình và phúc lợi của các quốc gia, và để cứu trợ cho những người thực sự cần thiết. Tuy nhiên, chúng ta nên nhận thấy rằng như thế chưa đủ, điều đó chỉ giúp ích ở mức độ nào đó. Nguyên nhân thực sự của chiến tranh là tham lam, sân hậnsi mê. Chỉ bằng phát triển paññå, chúng ta mới có thể tận diệt được tham, sân và si.

Bát chánh đạo dẫn tới niết bàn. Niết bàn là sự chấm dứt mọi phiền não. Niết bàn có thể được chứng ngộ tại đây và bây giờ, trong kiếp sống này. Khi paññå đã được phát triển từng giai đoạn một, nó có thể đạt tới mức độ đạt được sự giác ngộ. Tại khoảnh khắc đó, niết bàn được kinh nghiệm. Khi chúng ta đã nhận ra niết bàn, chúng ta sẽ hiểu “giác ngộ chân lý” nghĩa là gì.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34433)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16894)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 23012)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13076)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 22016)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22255)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14894)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23644)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24187)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23731)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17181)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19399)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27129)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14445)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13872)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22733)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14795)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17398)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12708)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13903)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10442)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14741)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17228)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12582)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12753)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10394)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28744)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10733)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11161)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16911)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15802)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13362)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12591)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11408)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13060)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19351)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12293)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28689)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10085)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21622)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12823)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17863)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26333)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11740)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10880)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22813)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12085)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10631)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11431)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11551)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant