Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

15. Bố đại Hòa thượng

01 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 5355)
15. Bố đại Hòa thượng


15. Bố đại Hòa thượng


Vũ trụ tuần hoàn muôn vật đổi thay, hết Xuân đến Hạ, hết Hạ đến Thu, hết Thu qua Đông. Như thế gọi là một năm.

Quả đất xoay xung quanh mặt trời, cứ giáp một vòng quả đất là một tháng. Mười hai lần xoay của quả đất giáp một vòng quanh của mặt trời là một năm. Có tháng có năm đó là điều nhân loại mới phát hiện sau này.

Trong lúc nhân loại đang ở thời kỳ sơ khai thì chưa biết đến điều đó. Dần dần chiêm nghiệm mọi vật sinh thành giữa vũ trụ, sự luân chuyển của mặt trời mặt trăng, bấy giờ người ta mới đoán định, mới thuyết đặt ra có ngày, có tháng, có năm. Rồi mỗi cuối năm người ta lại nghĩ: Chắc sẽ có một vị thần nào đó đi chu du khắp cả thế gian, soi xét việc lành việc dữ của mọi người. Cho đến khi vị thần đi tuần hành thăm sát hết một năm, qua năm khác truyền cho vị khác. Vì vậy mà múi giờ đầu tiên của năm cũ và năm mới giáp nhau thì gọi là Giao thừa. Tức một bên vị thần cũ giao chức vụ lại cho vị thần mới thừa kế, tiếp tục việc tuần du thế gian, xem xét người làm lành, làm dữ trong thiên hạ.

Đó là một bước tiến, một sự văn minh của con người, chứ khi còn sơ khai con người không hề biết các điều đó. Rồi người ta thấy năm tháng trôi qua xoay tròn luân chuyển, liền nghĩ, người ta sanh trong năm tháng như vậy, nhưng tại sao có người sanh ra đã sướng, họ sung sướng ngay từ trong bụng mẹ cho đến khai sanh ra và đến lúc chết. Họ là những người cơm dư ăn, áo dư mặc, đủ mọi quyền thế, đủ xe đủ cộ và luôn cả nhà cửa, họ mong chi được nấy, muốn chi có nấy. Ngược lại có người sống rất cực khổ, mà lại khổ từ trong lòng mẹ khổ ra cho đến khi nhắm mắt tắt thở, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, cầu mong hết sức mà cũng không bao giờ thõa mản được. Rồi có người lành mạnh suốt cả đời, cũng có người đau lên đau xuống suốt cả năm. Lại cũng có người làm gì cũng sáng suốt, công việc được trôi chảy, mà cũng có người làm gì bị trở ngại nấy, bỏ công rất nhiều mà kết quả gặt hái thì rất ít, ngược lại, có người bỏ công rất ít mà kết quả gặt hái rất nhiều, tại sao như thế? Người ta tìm đủ mọi lý do để giải thích sự sai biệt đó.

Có người nghĩ rằng có lẽ anh đó sanh vào năm đó, tháng đó không tốt, hay sanh vào ngày đó không lành nên mới suy đoán, mỗi năm có 12 con giáp, tức thiên can thập nhị chi là Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất Hợi. Thí dụ năm này người sanh năm Tý thì tốt, người sanh năm Hợi không tốt; người sanh năm Thân tốt người sanh năm Dậu không tốt, chắc có lẽ vì năm sanh cho nên cuộc đời của anh ta không tốt. Anh kia nhờ năm sanh tốt cho nên cuộc đời của anh ta ăn nên làm ra.

Nhưng trải qua một thời gian kinh nghiệm, người ta thấy anh A, B, C, ba anh cùng sanh năm Tý, nhưng có anh cuộc đời tốt, có anh không tốt. Ba anh đồng sanh vào năm Hợi tại sao có anh sướng có anh khổ? Họ nghĩ chắc còn điều gì nữa chứ không phải tại năm sanh! Có lẽ vì không tính tháng. Họ liền nghĩ tháng sanh không tốt cho nên cuộc đời anh ta không tốt. Nhưng cũng có ba anh cùng sanh một tháng, sao có anh sướng có anh khổ, có anh thông minh, có anh ngu dốt? Người ta lại nghĩ chắc tại ngày, chứ không phải tháng không mà thôi. Vì vậy họ mới tính thêm ngày. Như vậy là coi năm, coi tháng, phải coi cả ngày nữa. Khi anh ta sanh có đúng ngày tốt hay không? Hễ sanh ngày tốt thì cuộc đời anh ta tốt, hễ sanh nhằm ngày xấu thì cuộc đời anh ta không ra gì. Lại cũng có ba anh sanh cùng năm, cùng tháng, cùng ngày, nhưng có anh lại tốt, có anh lại xấu là vì sao? Người ta lại đoán chắc còn tính thêm giờ sanh nữa thì mới đúng. Có anh sanh năm Tý, giờ Tý, tháng Tý nhưng có người ăn nên làm ra, có người không ra gì. Lại có ba anh cùng sanh năm Hợi, tháng Hợi, ngày Hợi, giờ Hợi, nhưng tại sao có anh sướng anh khổ, anh thông minh anh ngu dốt? Chắc có cái gì nữa đây chứ không phải vì năm, vì tháng, vì ngày, vì giờ họ nghĩ như vậy. Có lẽ còn thêm cái mạng nữa.

Giữa vũ trụ có năm loại là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Anh A sinh năm đó thuộc mạng Thổ hay thuộc mạng Kim, nếu năm đó thuộc năm Kim mà mạng anh thuộc mạng Mộc. Vậy thì Kim gặp Mộc là khắc rồi. Thì sắt chặt cây thì cây phải gãy, chứ cây không chặt sắt được. Như vậy là Kim khắc Mộc. Nếu Kim sanh Thủy thì tốt hay sanh năm Thổ, Thổ sanh Kim là tốt. Họ liền nghĩ thêm: Coi năm, coi tháng, coi ngày, coi giờ cộng thêm phải coi mạng nữa mới đủ. Nhưng rồi cũng ba người đó, sanh cùng năm, cùng tháng, cùng ngày, cùng giờ, cùng mạng mà cũng có anh sướng, có anh khổ, có anh thông minh, có anh ngu dốt, chắc còn cái gì nữa đây? À, té ra trên trời có các vì sao như sao La Hầu, sao Thổ Tú, sao Thủy Diệu, sao Thái Bạch, sao Thái Dương, sao Vân Hớn, sao Kế Đô, sao Thái Âm và sao Mộc Đức. Anh ấy có thể bị xoang vào một các vì sao đó như sao La Hầu chẳng hạn, nên năm nay cuộc đời anh không tốt lắm. Vì sao La Hầu đối với đàn ông là xấu nhất, sao Kế Đô đối với đàn bà là xấu nhất. Như vậy là còn tính thêm sao nữa. Đàn ông mà gặp sao La Hầu thì năm đó coi như đại kỵ đại xui. Còn gặp sao Mộc Đức, sao Thủy Tú thì tốt. Do đó đẻ ra chuyện cúng sao.

Coi ngày, coi tháng, coi năm, coi giờ, coi mạng rồi coi thêm cúng sao nữa, một mặt nào đó thì có thể nói đó là một bước tiến của con người tạm gọi là văn minh, chứ trước kia con người còn sơ khai không biết gì cả. Thậm chí khi sanh không biết ngày nào sanh, chết cũng không biết sống bao nhiêu năm thì chết. Sanh rồi chết, chết rồi sanh, sanh ra thì nuôi, chết rồi đem chôn. Đó là tình trạng dân bán khai ngày xưa, nếu chúng ta hỏi họ bao nhiêu tuổi, họ cũng lắc đầu. Sanh năm nào, học cũng chả biết. Đó là khi còn bán khai họ chưa tiến bộ, nhưng bây giờ tiến bộ rồi, nên khi sanh ra người ta lại coi năm, coi tháng, coi ngày, coi giờ, coi mạng, coi sao đủ thứ. Đó cũng là một bước tiến bộ nhưng xem ra quá phức tạp. Tuy vậy cũng có người sanh ra cùng năm, cùng tháng, cùng ngày, cùng giờ, cùng mạng, cùng sao mà cũng có người sướng người khổ là vì sao? Khi đó người ta nghĩ chắc có ông Trời nữa.

Ông Trời là một vị thiêng liêng, cao cả ở trên đầu chúng ta, ông định đoạt cuộc đời của mọi người sướng hay khổ. Ví dụ, ông định cho cuộc đời của ông A sướng thì ông A được sướng, ông định đoạt cuộc đời của ông B khổ thì ông B phải khổ. Chứ sao cung coi rồi, ngày tháng cũng coi rồi, giờ cũng coi rồi...mà tại sao cuộc đời nó khác nhau như vậy. Có lẽ tại vì ông Trời. Ông định đoạt như thế nào thì phải chịu như thế ấy. Như một nhà thơ Việt Nam có câu:

Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao,

Do đó mới đẻ ra lòng tin.

Đầu năm người thì đi cúng sao, vì tin theo sao. Người thì tin theo ngày tháng lại đi coi ngày tháng, người tin ông trời cao cả thì theo ông trời cao cả, mỗi người đi theo mỗi hướng, nhưng chả nơi nào đúng hết, bởi vì ông trời cao cả định đoạt tất cả cuộc đời con người, nhưng người ta lại nghi ngờ ông trời, vì ông định đoạt một cách thiên vị. Ví như cho ông A sướng còn ông B khổ, như vậy là ông trời không công bằng. Đã là ông trời cao cả sao lại bất công như vậy. Bất công như vậy sao gọi là cao cả, cho nên cũng không đúng. Thế thì tại sao cũng là con người lại có sự sai khác đó? Mà thật sự có ngày tốt, giờ tốt, năm tốt, tháng tốt hay không? Đức Phật dạy: Ngày nào cũng là ngày tốt, giờ nào cũng là giờ tốt. Nếu người ta hướng đến điều thiện, hướng đến lẽ phải. Tất cả các điều vừa nói đó chỉ vì người ta quên mình đi, hướng theo bên ngoài, nhìn theo sự vật để định đoạt cái thân phận của mình. Mà chính tâm của mình mới là lớn lao, mới là bao quát nhất, là chính yếu định đoạt tất cả mọi vấn đề, tất cả cuộc sống của mình. Lẽ tất nhiên tâm mình đây không phải là tâm trong hiện tại mà kể cả cái tâm quá khứ nữa, cho nên cuộc đời của mình có sự sai khác. Dầu trong hiện tại, tâm anh tâm tôi cũng đụng như nhau, làm việc thiện cũng giống nhau, nhưng tâm quá khứ của anh khác, tâm quá khứ của tôi khác, cho nên anh sống trong một hoàn cảnh khác, tôi sống trong một hoàn cảnh khác. Như vậy cái tâm quá khứ của mỗi người có sự sai khác là vậy. Khi biết rõ nguồn gốc của sự sai khác giữa người này và người khác, qua sự giàu nghèo, ngu dốt, sanh hèn, bệnh tật, sống lâu hay chết yểu. Chính do cái tâm của mình làm chủ mà sinh ra các điều đó. Cái tâm ấy không phải chỉ là tâm hiện tại mà luôn cả cái tâm trong quá khứ nữa.

Ngày hôm nay cùng đi học thi, trò nào cũng siêng năng chăm chỉ hết, học suốt cả ngày từ 10 đến 15 tiếng đồng hồ, nhưng đi thi có người đậu người hỏng, thì sao? Vì hiện tại đều siêng năng, nhưng ngày trước thì người siêng kẻ nhác. Anh chỉ siêng năng mới ngày nay thôi chứ còn ngày trước anh biếng nhác, chỉ biết thu sách vở trong bụi để đi chơi, nên có anh thi đậu, có anh thi hỏng, mặc dầu hôm nay hai người cùng siêng như nhau, nhưng ngày trước lại quá nhác nên hôm nay đi thi bị hỏng. 

Vì vậy ngày xưa có vị thiền sư nói rằng:

Xuân hữu bách hoa thu hữu nguyệt
Hà hữu lương phong đông hữu tuyết
Nhược vô nhàn sự quái tậm đầu
Nhất thế thời trung giai hảo tiết

Nghĩa là:

Mùa xuân có trăm hoa mùa đông có tuyết, 
Mùa hạ có gió mát, mùa thu có trăng sáng.
Nếu không có sự quanh co vướng mắc trong lòng,
Thì tất cả thời nào cũng tốt hết.

Nên khi cái tâm của chúng ta còn những điều rắc rối, quanh co, uẩn khúc, vướng mắc trong lòng, thì dầu có coi ngày, coi tháng, coi năm, coi giờ, coi sao, chi gì gì đi nữa, ta cũng ở trong cái vòng luẩn quẩn đau khổ, không có tự tại an vui được. Cho nên đi coi về mà tâm vẫn không yên. Coi ngày coi tháng về mà tâm vẫn rối, vì sao? Vì tâm ta còn khúc mắc, quanh co, đang vướng bận trong lòng, đó là điều chính yếu. Vì vậy, khi nào trong tâm tư của ta mở toang ra được những điều khúc mắc quanh co, không vướng những điều đó nữa, thì giờ nào cũng là giờ tốt hết. Như vị Thiền sư đã nói: Mùa xuân có trăm hoa, mùa đông có tuyết, mùa hạ có gió mát, mùa thu có trăng sáng. Như vậy thì trăm hoa mùa xuân nào có riêng của ai đâu! Gió mát mùa hạ nào có riêng của ai đâu, trăng sáng mùa thu nào có riêng của ai đâu, tuyết rơi mùa đông nào có riêng cho ai đâu, không riêng của ai hết. Như vậy, nếu như biết thưởng thức trăm hoa mùa xuân, trăng sáng mùa thu, gió mát mùa hạ, tuyết rơi mùa đông với một tâm thảnh thơi, không có điều gì khúc mắc, thì giờ nào cũng tốt, thời nào cũng đẹp cả.

Các vị thiền sư sống trong niệm đó nên không vướng mắc, do đó không đi coi ngày, không đi coi bói, không đi coi giờ, không đi cúng sao, không đi giải hạn. Các Ngài chỉ lo niệm kinh, tỉnh giác, lạy Phật sám hối để trau giồi tâm tánh của mình thật an tịnh, sáng suốt, hiền lành, tâm được tự tại thì bất cứ ngồi đâu, đi đâu, ở đâu cũng đều tự tại, lúc nào miệng cũng nở nụ cười tươi tỉnh.

Theo thế tục đầu năm chúng ta vẫn làm lễ Giao thừa, nhưng cũng không quên chúng ta còn làm lễ kỷ niệm đức Di Lặc nữa.

Thường thường đức Di Lặc có hình dáng bụng thì to, miệng thì mỉm cười hoan hỷ bao dung. Nhưng cái bụng to này là to rất đẹp, chứ không phải to dễ ghét. Miệng Ngài cười là nụ cười giải thoát chứ không phải cười ngạo nghễ, cũng không phải cười khoái chí. Thế gian, có người ghét ai thì lại cười cho khoái chí để trả thù. Trái lại, nụ cười đức Di Lặc không dính chi đến mấy nụ cười đó hết. Nụ cười của Ngài là nụ cười siêu thoát vượt lên trên tất cả các nụ cười của thế gian. Vì thế mà có người tả nụ cười của Ngài bằng hai câu thơ như thế này.

Đại đổ năng dung dung thế gian nan dung chi sự. 
Từ nhan vi tiếu tiếu thiên hạ khả tiếu chi nhơn.

Nghĩa là:

Cái bụng lớn có thể dung chứa, dung chứa những việc khó dung chứa của thế gian.
Nét mặt từ bi mỉm cười, cười những người đáng cười trong thiên hạ.

Đại đổ năng dung dung thế gian nan dung chi sự. Cái bụng lớn hay dung. Bụng lớn đây không phải vì ăn nhiều mà to bụng, kêu bụng lớn. Bụng lớn này là một sự tiêu biểu, chỉ cho cái tâm rộng rãi bao tất cả. Vậy nó dung cái gì? Dung những điều mà người thế gian không dung được.

Thí dụ đầu năm mới ra đường gặp một người nào đó đi ngang trước mặt mình, họ vứt bỏ đồ nhớp trúng mình. Như vậy là mất hên nên không dung được. Đầu năm mở hàng gặp một người mua hàng cứ trả cù nhằn cù nhằn, trả tới trả lui, chê đắt chê xấu không mua, thì không dung được. Đối với Đức Di Lặc thì chuyện đó quá thường, Ngài dung hết. Vì cái bụng năng dung của Ngài là bụng có tâm lượng bao dung, khoan dung, nên mới ở với chúng sanh được.

Trong một gia đình, vợ chồng, con cái, anh em có thể đụng chạm nhau hằng ngày, hằng giờ so đo từng ly, từng tí là vì họ không có một tâm niệm bao dung nên không thể sống chung với nhau được. Ngay trong bà con cũng không thể sống chung với nhau, huống chi là thiên hạ là người xa lạ. Cho nên sự bao dung đó là một điều hết sức thiết yếu để tạo lấy niềm an vui hạnh phúc. Mà Đức Di Lặc là tiêu biểu cho tấm lòng bao dung đó.

Từ nhan vi tiếu, tiếu thiên hạ khả tiếu chi nhơn. Miệng mỉm cười, cười những điều đáng cười trong thiên hạ. Xì ke ma túy mà đụng vào thì coi như tan gia bại sản, táng thân thiệt mạng. Thế nhưng có nhiều người vẫn cứ đụng như thường. Nếu nói đáng cười thì cũng đáng cười thật. Rượu chè cờ bạc ăn chơi xả láng thì cũng có ngày tan gia bại sản, cũng táng thân thiệt mạng. Nhưng vẫn có người cứ đụng như thường. Điều đó cũng đáng cười thật, nhưng mà thế gian không cười, cứ nhào vô mà nhắm mắt đụng vô thôi, nên từ nhan vi tiếu. Tiếu là cười, cười đây là cười cái vô minh của chúng sanh. Chúng sanh vô minh không tỉnh ngộ, không làm chủ bản thân của mình. Đó cũng là điều đáng cười.

Ngày xưa bên Trung Hoa có một vị Hòa Thượng tên là Trường Đính. Sáng tụng kinh xong, ngài vác một cái đãy vải rất lớn đi ra ngoài chợ, hoặc đến chỗ nọ chỗ kia để xin đồ đạc. Ai cho gì ngài cũng bỏ vào đãy vải đó hết. Cho cá ngài lấy cá, cho thịt ngài lấy thịt, cho tôm ngài lấy tôm, cho gạo ngài lấy gạo, cho cơm ngài lấy cơm, cho bánh ngài lấy bánh...Ai cho gì ngài cũng nhận hết. Khi đã đầy đãy rồi ngài vác tới nơi gốc cây nào đó, rồi qui tụ các em bé, những người ăn xin, những người thất cơ lỡ vận, các cháu mồ côi...lại để phân phát đồ đã xin được cho họ, rồi nói chuyện đạo lý phải trái cho họ nghe, giảng đạo cho họ hiểu. Cho hết đãy đó rồi ngài lại đi xin tiếp, hễ đầy đãy thì lại tìm một chỗ khác để phân phát cho họ. Hết ngày ngài trở về chùa, tối tụng kinh, tham thiền, niệm Phật. Sáng mai thức dậy tụng kinh xong thì ngài cũng vác đãy đi xin như thế để cho những người đáng cho. Vì ngày nào ngài cũng mang một đãy vải lớn như vậy nên người ta không biết ngài tên gì và đã đặt cho ngài cái tên là Bố Đại Hòa thượng (ông Hòa thượng mang cái đãy vải to lớn).

Cho đến khi ngài tịch, người ta đến để đưa tang ngài, lạ thay họ thấy nơi bàn của ngài để lại 4 câu thơ:

Di Lặc chơn Di Lặc,
Hóa thân thiên bách ức,
Thời thời thị thời nhơn,
Thời nhơn thường bất thức.

Nghĩa là:

Di Lặc chính ta đây,
Hóa thân trăm ngàn ức,
Thường thường hiện (ra) người thường,
Người thường không biết được (Ta).

Bấy giờ mới biết đó là hóa thân của đức Di Lặc. Người sau mới tạc theo cái tượng của ông Bố Đại đó gọi là tượng Di Lặc, mà đa số các chùa đều thờ.

Đức Di Lặc là một vị đệ tử trong Pháp hội của đức Thích Ca. Trong Pháp hội này Ngài có tên là Lô, người nhỏ nhất trong chúng. Một hôm, đức Thích Ca muốn khai thị cho đại chúng biết đức Di Lặc tương lai là vị quan trọng như thế nào để đại chúng biết. Và Ngài liền quăng cái bát lên trên hư không rồi bảo các vị Tỳ kheo đi tìm cái bát về. Nhưng không có vị Tỳ kheo nào tìm bình bát về được hết. Khi đó đức Di Lặc là vị Tỳ kheo nhỏ nhất trong chúng ngồi dưới hàng chót, đưa tay xin đi lấy. Đức Phật chấp nhận. Ngài đã lấy cái bình bát về được. Nhân đó đức Thích Ca thọ ký cho đức Di Lặc tương lai tác Phật (ngày sau làm Phật thay thế đức Thích Ca).

Từ sự thọ ký đó cho đến cái hiện thân làm Bố Đại Hòa thượng với thân hình rất to, miệng cười hoan hỷ mà các chùa tạc để thờ là cái hóa thân của đức Di Lặc Bồ tát. Đức Di Lặc Bồ tát hiện tại đang ở cõi trời Đâu Suất, tương lai sẽ giáng sanh cõi Ta bà thế giới để kế vị đức Thích Ca làm giáo chủ cõi Ta bà thuyết pháp độ sinh.

Nơi tượng đức Di Lặc, ta thường thấy có 5 đứa trẻ con bu xung quanh Ngài là có ý nghĩa gì? Năm đứa trẻ con đó là tiêu biểu cho ngũ thức (nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân). Bởi đức Di Lặc có một kiếp Ngài chuyên tu về Duy thức quán, tức quán các thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt-na thức và a-lại-da-thức. Mà năm cái thức hiện ra bên ngoài bằng mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân cảm xúc. Thường thường con người hay sống với năm cái cảm xúc bên ngoài đó. Nhưng con mắt tiếp xúc có khi lành khi dữ, lỗ tai tiếp xúc có khi lành khi dữ. Người mà có tâm bất chính, tham lam thì con mắt nhìn cái gì cũng láo liên, muốn nó thuộc về mình. Người có tâm sân giận khi tiếp xúc với bên ngoài, hễ ghét ai thì con mắt trợn trừng dễ sợ lắm. Trái lại đức Di Lặc đã điều khiển được ngũ thức nên không còn mang cái tướng tham lam, sân hận, ích kỷ nên đã trở thành ngũ thức hiện lượng mà trên tượng đức Di Lặc đã biểu trưng cho 5 đưa trẻ ngây ngô hồn nhiên, tượng trưng cho ngũ thức đã được hàng phục rồi. Còn chúng ta, con mắt chưa chế phục được cho nên có cái gì gợi lòng tham thì nhìn ngay, điều gì đáng ghét thì con mắt lại nhìn chỗ khác; nghe tiếng gì đáng ưa thì lỗ tai chú ý, tiếng gì đáng ghét thì lỗ tai quặp xuống. Cho nên nhiều người nói: Nhìn thấy con mắt mà biết anh ấy có cái tâm thật hay không thật, nhìn đôi mắt anh ấy mà biết anh ấy hiền lành hay ác độc. Lý do đơn giản, sở dĩ con mắt chưa hiền lành được là vì con mắt đó còn có tâm tham, sân, si, mạn, nghi, phiền não, cho nên con mắt nó phải làm theo sự điều khiển của tâm.

Đức Di Lặc đã điều khiển được tâm cho nên nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân ở nơi Ngài trở thành thanh tịnh, trở thành hiện lượng, trở thành trực giác, trung thực không có ô nhiễm, không có phiền não, tiêu biểu cho 5 đứa con nít ở nơi Ngài: Ngây ngô rất dễ thương. Vậy thì bây giờ chúng ta phải luyện tập để cho lỗ tai, con mắt khi người khác nhìn vào cho dễ thương như 5 đứa con nít đó. Muốn được như thế chúng ta phải tu tập và hi vọng một ngày không xa chúng ta cũng sẽ có 5 em bé dễ thương ấy leo trên bụng, trên lưng, trên vai, trên cổ của chúng ta.

Đức Di Lặc đã điều phục được tâm không còn tham, sân, si. Ngũ thức tiêu biểu cho 5 đứa con nít dễ thương đó là nhãn, nhỉ, ti, thiệt, thân. Ngài đã dứt trừ hết tham, sân, si... cho nên được miệng cười hoan hỉ. Nếu tâm còn tham thì khó hoan hỉ lắm.

Muốn được hoan hỉ như vậy thì phải tu hành, điều khiển chế phục được lòng tham, lòng sân, lòng si, ngã mạn, cống cao, ích kỷ của mình. Khi tâm càng vô ngã, không chấp ngã chừng nào thì bấy giờ phiền não mới tiêu tan, hoan hỉ mới bộc lộ ra chừng đó. Khi ấy chúng ta mới gần gũi được hạnh hoan hỉ của đức Di Lặc và mới sống được trong cái đời sống hoan hỉ của đức Di Lặc.

Đầu năm bấy nhiêu lời tôi xin chúc tất cả các Phật tử được sống một năm hoan hỉ theo hạnh của đức Di Lặc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14875)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17805)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18221)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14998)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13193)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21168)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32593)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15322)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12350)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12837)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27535)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12138)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34969)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17753)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11828)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12651)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14571)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32475)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19462)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12972)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14088)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14272)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15318)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14145)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14136)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11959)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53183)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11666)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13927)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13822)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20696)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14313)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13435)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13619)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34181)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16211)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14073)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14204)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13567)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15922)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13517)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22982)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27748)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13908)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24978)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13954)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31336)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13867)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15563)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14980)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant