Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

18. Tìm hiểu sơ lược về Phật giáo Ấn, Trung, Việt

01 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 5361)
18. Tìm hiểu sơ lược về Phật giáo Ấn, Trung, Việt


18. Tìm hiểu sơ lược về Phật giáo Ấn, Trung, Việt


I. Phật Giáo Ấn Độ

Ánh sáng Phật giáo bắt đầu soi đến nhân gian từ khi Giáo chủ Thích Ca thành đạo ở gốc cây Bồ đề.

Sau khi thành đạo, Ngài liền tìm hóa độ năm vị Tỳ kheo thường tùy tùng Ngài và vô số Tăng Ni cùng tín đồ khác. Với một tinh thần bình đẳng từ bi khác Bà-la-môn giáo, Đức Phật đã nhiếp hóa người rất dễ dàng. Từ vua chí dân, từ nghèo đến giàu, từ hạng biên tộc đến quý tộc, không một hạng nào Ngài bỏ rơi mà không nhiếp hóa. Bởi vậy trong trong giáo đoàn của Ngài đủ mặt các tầng lớp xuất gia tu học. Uy danh của Ngài và đệ tử mỗi ngày mỗi lan rộng, nên bên trong đã làm cho những kẻ hiếu danh như ông Đề-bà-đạt-đa mưu phản nghịch, bên ngoài đã làm cho bọn Bà-la-môn tìm kế chống đối, song rốt cuộc họ đều phải nhượng bộ, vì giáo lý viên dung và nhân cách cao thượng của Ngài, Ngài vẫn thản nhiên, phân lãnh đồ chúng đi giáo hóa các phương, trải qua 49 năm không biết nhàm mỏi. Cho đến ngày cuối cùng trong rừng Ta-la, Ngài còn ân cần răn dạy và độ cho Ông Tu-bạt-đà-la xuất gia.

Trong thời gian truyền bá này có nhiều vị đệ tử đã tỏ ra hy sinh để truyền bá chánh pháp. Như Tôn-giả Tỳ kheo Purna đến xin Phật một mình đến xứ Du-lô-na lạ lùng, có tiếng hung dữ, để truyền bá, hoặc như Tôn-giả Mục Kiền Liên đã bị ngoại đạo ám hại trên đường hóa đạo trở về v.v...

Nhờ giáo pháp cao thâm cũng như sự tận tâm cố gắng đó, nên mặc dầu bị gốc rễ ngoại đạo cản trở, trong thời gian non nửa thế kỷ, đạo Phật đã gầy dựng trên khắp lưu vực sông Hằng, sông A-cách-la phía Bắc đến Tuyết sơn ly, Nam đến xứ Ma-dà-dà, Đông đến Thiện Bạch Champa, và Tây đến Câu-diệm-di (Kosambi), một cơ sở đồ sộ.

Sau khi Phật nhập Niết-bàn, Tôn-giả Ma-ha-Ca-diếp (Maha Kassapa) thay Phật thống nhất Tăng chúng. Đa số hàng vô học theo Phật mà nhập Niết-bàn, còn hàng hữu học thì buồn bã, đến đỗi có các Tăng chúng trong 18 ngôi chùa lớn tại thành Vương xá tự phá chùa rồi bỏ đi. (Sau vua A-xà-thế trùng tu trong một tháng xong cả). Ngược lại có những vị si tỳ kheo thì vui mừng, như ông Tu Bạt đà-la-ma la đã nói: "Đại Sa-môn còn thì ta cứ bị ràng buộc theo những điều tịnh, bất tịnh, nên làm, không nên làm. Nay Đại Sa-môn mất, ta được tự do, muốn làm thì làm, không muốn thì đi nghỉ." Nhân đó Tôn-giả Ca-diếp liền họp 500 Thánh chúng tại Tịnh xá Thất-Diệp-Khốt ở thành Vương xá (do A-xà-thế lập), kiết tập đạo lý của Phật dạy trong vòng bảy tháng, kể từ đầu hạ an cư tiếp theo năm Phật Niết-bàn. Đồng thời ở chỗ khác, Tôn-giả Ba-sư-ca (Gaspa) cũng chiêu tập hàng vạn Tăng chúng kiết tập Pháp tạng. Nhân đó manh nha chia thành hai bộ phái: Thượng tọa bộĐại chúng bộ, để sau này biệt lập hẳn.

Sau Phật nhập diệt độ 100 năm, Ngài Trưởng lão Da-xá qua nước Tỳ xá ly, nhân nghe phái Tỳ khưu xứ Bạt kỳ xướng ra mười điều luật mới (mà về sau phái Thượng tọa cho đó là mười điều phi pháp), nên mở hội thảo luận cùng nhau ráo riết, rốt cuộc 10 điều đó cũng được phái Bạt kỳ khư khư bảo thủ, lại được vua nước Ma kiệt đà la Ca la A-dục binh vực. Ngài Da xá trước sự tình ấy, liền họp 700 Tăng chúng tuyên bố 10 điều kia là phi phápkiết tập Pháp tạng lần thứ hai. Do đây hai bộ phái hình thành rõ rệt, rồi mỗi ngày vì càng xa cách Phật, vì nhân tâm biến đổi, địa thế bất đồng, ở trong cơn loạn lạc đó, đoàn quân của Á lịch sơn đại vương từ Ai Cập tràn vào Ấn Độ, nên hai bộ phái lại lần lần chia thêm ra mười tám bộ nữa, cộng với hai bộ gốc thành ra 20 bộ. Đây là sự biến đổi lần thứ nhứt trong lịch sự Phật giáo Ấn Độ. Trong thời gian độ 100 năm này, bên trong thì có Luật sư Mục Kiền Liên Tử tu và Pháp sư Ưu ba cúc đa, tận lực truyền trì luật pháp; bên ngoài sau khi đoàn quân của Á lịch sơn đại vương tuy rút đi, nhưng sự liên lạc giữa người Ấn với người Ai Cập, Hy Lạp vẫn còn, nên Phật giáo chịu ảnh hưởng nền nghệ thuật Hy Lạp mà tạo thành nền nghệ thuật riêng cho mình và gieo rắc Phật pháp vào hai nước kia. Phật giáo thời này như vậy kể ra có phần phát triển, song vì còn giữ tính cách bảo thủ nên sự lưu truyền vẫn còn ở các địa hạt như xưa.

Đến thời A-dục vương triều Khổng Tước, nghĩa là sau Phật nhập diệt trên 200 năm, trong Phật giáobiến đổi lần thứ hai. Khác với lần biến đổi trước thuộc phạm vi tranh cãi về giáo lý. Đâu đâu cũng nghe tứ chúng cãi về năm sự (sự sở dụ, vô tri, do dự, than linh nhập, đạo nhân sanh cố khởi) của ông Đại thiên Tỳ khưu. Phái Đa văn thì tôn ông là bậc Đại thừa Bồ tátcông nhận năm sự kia. Kết quả lần kiết tập thứ ba được triệu tập tại thành Hoa Thị xứ Trung Ấn (kinh đô của đế quốc Ấn Độ) trong sự ủng hộ triệt để của vua A dục.

A-dục là một ông vua rất có công to trong lịch sử truyền bá Phật giáo, hơn nữa là một vĩ nhân trong lịch sử nhân văn của thế giới. Trước khi đầu Phật, ông là một ông vua thông minh đởm lược, hợp với tánh tàn bạo độc đoán, (vì ác, nên người sau gọi là Chiên đà la A-dục), nên đã nối nghiệp ông nội và phụ hoàng, mở rộng đế quốc Ma-Kiệt-Đà, thống nhất lãnh thổ Ấn Độ đến các tiểu quốc Ấn về dưới sự cai trị của mình, làm cho các lân bang thấy vậy khiếp sợ. Nhưng sau nhờ gặp Tỳ kheo Ni Cù-đà giáo hóa cho, liền hối hận tội lỗi đã giết hàng triệu sanh linh, nên quy đầu về Phật, hóa thành một ông vua nhân từ, không còn dùng uy thế để sát hại, mà lại dùng uy thế ấy để truyền bá Phật pháp trong nhân dân (vì vậy người sau gọi Đa ra A-dục). Ông thường ban hành các sắc dụ khuyên nhân dân thực hành Phật pháp, khắc lời Phật dạy vào các trụ đá để kỷ niệm các nơi Phật tích và dựng khắp nơi để truyền bá cho dân chúng. Xây 84.000 Bửu tháp để tôn thờ Xá lợi, lại cho em ruột là Tỳ-đại-du-ca, con trai là Ma-hê-đà (Mahinda), con gái là Tăng già mật (Sanghamitta) xuất gia để góp sức vào việc truyền bá Chánh pháp. Đồng thời với sức truyền bá mãnh liệt và có phương pháp ấy, lại có những vị Cao Tăng như Đàm Vô Đức, Mục kiền tử để tu chỉnh nội bộ, nên Phật giáo thời này cực thịnh, gây được ảnh hưởng cả bề sâu lẫn bề rộng trong dân chúng. Phật giáo về trước lưu hành chung quanh lưu vực sông Hằng và Kha cách la, nay vượt biên cương truyền khắp lãnh thổ Ấn Độ và lan đến các nước ngoài trị quyền nhà vua.

Sau khi vua A-dục qua đời, phương Nam có Ma hê đà truyền Phật giáo đến nước Sư Tử (tức Tích Lan ngày nay), được quốc dân sùng bái nhiệt liệt, nên thêm một lần nữa kiết tập đã được tổ chức tại nước này và dùng văn Pàli để chép Tam Tạng, làm nơi căn cứ của hệ thống Phật giáo Nam phương sau này.

Phương Bắc Tôn-giả Mạt-xiển đề truyền Phật giáo vào hai nước Ca-thấp-di và Kiền-sà-ra, cảm hóa hàng vạn triệu người theo Phật. Tôn-giả Đại lặc khí truyền vào Du-na thế giới (Yonava) thuộc A Phú Hãn. Thời ấy giảng kinh Ca ta ra ma (Katakarama sutta), khiến cho cư dân ở đó đều thấm nhuần Phật giáo, về sau vùng này có vị vua Mạch mạn đặt nhi (Milinda) rất tham tín và ủng hộ Phật giáo. Những đạo lý thảo luận giữa ông và Tỳ kheo Na tiên đã tạo thành cuốn kinh Na tiên Tỳ kheo sau này (tên Pàli là Milinda Panhà Sutta).

Thời gian này kéo dài đến 600 năm sau Phật nhập diệt tức là lúc các bộ phái cùng nhau ly hiệp biến hóa đến cực điểm, lại là lúc đế quốc Ma kiệt đà đã bị vua Ấn Đạt la ở Nam Ấn lật đổ, lập nên A đạt la vương triều, Bà-la-môn thừa cơ hoạt động, lấn áp Phật giáo, nên đa số Tăng đồ phía Bắc đi qua nước Đại nhục chi gặp được Ca nị sắc ca (Kaniska) là một ông vua rất ủng hộ Phật giáo không kém vua A dục, chiêu tập 500 vị Đại đức kiết tập Pháp tạng lần thứ tư tại nước Ca thấp di la (nếu kể lần kiết tập tại Tích Lan vị chi 5 lần) để dung hòa các mối kiến giải dị đồng của bộ phái. Lần này, một tác phẩm vĩ đại mới là luật Tỳ bà sa 200 cuốn, xuất hiện gồm thâu hết thảy kiến giải xuất sắc vào trong ấy. Do đó, trung tâm Phật giáo nay lại đổi sang Tây Bắc Ấn chứ không phải Trung Nam Ấn như trước nữa.

Trải qua thời gian 600 năm sau khi Phật nhập diệt. Phật giáo có 4 kỳ kiết tập như trên. Nhưng hai kỳ đầu chỉ nhóm chúng tụng lại lời Phật dạy cho nhớ mà thôi. Mãi đến kỳ kiết tập sau mời dùng văn tự chép thành kinh điển. Kết quả thành hai lối văn: Pàli và Phạn văn. Nhờ đó Phật giáo còn lưu truyền đến ngày nay hầu khắp thế giới, và trong hai kỳ kiết tập đầu thiên về giới luật, mà hay kỳ kiết tập sau lại thiên về giáo lý, nhờ vậy thánh điển truyền đến ngày nay đầy đủ cả hai phần luật và đạo lý.

Tóm lại, trong khoảng 600 năm sau Phật nhập diệtthời gian Tiểu thừa Phật giáo chiếm quyền ưu tiên tại Ấn Độ. Ta có thể chia thời gian này làm 3 thời kỳ như sau:

1. Thời kỳ thứ nhất, khoảng 100 năm sau Phật nhập diệt. Thời gian này nhờ ảnh hưởng cảm hóa của Phật còn mạnh, các đệ tử một mặt tuân thuần Phật chế, chưa có điều gì xảy ra. Ấy là thời kỳ thuần túy.

2. Thời kỳ thứ hai, khoảng từ 100 đến 400 năm sau Phật nhập diệt. Trong thời gian này bộ phái phân chia ráo riết, tuy đồng một tín ngưỡng, đồng tôn thờ một Giáo chủ. Nguyên do chính yếu nhất của sự phân chia là phái bảo thủ thì trọng thực hành, còn phái lý luận thì chủ tư biện. Phái bảo thủ chủ tâm giữ tròn quy luật, còn phái lý luận thì thấy triết lý của Áo nghĩa thư vẫn còn ảnh hưởng trong giới trí thức Ấn Độ, thêm vào Bà-la-môn bắt đầu xen vào Phật giáo, học giáo lý để mượn về chú giải Áo nghĩa thư, làm cho chánh tà hỗn tạp, nên phái này chú ý đến đạo lý nhiều hơn. Cả hai phái thành biệt lập, không thể hòa hợp lại. Ấy là thời kỳ phân chia bộ phái.

3. Thời kỳ thứ ba, khoảng từ 400 đến 600 năm sau Phật nhập diệt, vì lẽ không hợp nhau nên mỗi bên đều cật lực phát huy những điều sáng lạn, phát huy những tư tưởng Đại thừa bấy lâu nay tiềm ẩn để tạo nên Phật giáo Đại thừa, thay địa vị Tiểu thừa tại Ấn Độ, mà Tiểu thừa từ đây lặn xuống. Mãi đến 700 năm sau Phật nhập diệt, có Ngài Ha lê bạt ma (Harimarman) ở Bắc Ấn làm luận Thành Thật, phát huy đạo lý Chân không, Pháp không, có ý tổng hợp Giáo lý Đại thừa Tiểu thừa giáo tại Ấn Độ. Ấy là thời kỳ hết phân chia, cung kết Tiểu thừa.

Riêng về Đại thừa, thì kể ra có triệu chứng phục hưng từ lần kiết tập thứ ba để ấn định năm sự của ông Đại Thiên. Nhưng mãi đến khoảng 600 năm sau Phật nhập diệt, Tôn-giả Mã Minh đã sinh ra đời ở Bắc Ấn, làm luận Khởi Tín, vua Ca nị sắc ca ủng hộ tuyên truyền. Tiếp đó 100 năm lại có Bồ tát Long Thọ ra đời ở Nam Ấn (xứ Serar) làm luận Trung Quán, luận Thập Nhị Môn, luận Trí Độ, phát xuất Không tôn và Chân ngôn tôn, rồi truyền cho đệ tửLong Trí và Đề-bà, nối nghiệp giảng luận tạo ra Bách luận, tồi tà hiển chánh, nên Đại thừa được phát dương mạnh mẽ (Phật giáo truyền vào nước Việt Nam ta thời này).

Sau Bồ tát Long Thọ 200 năm, có Bồ tát Vô Trước sanh từ Bắc Ấn, sau đến Trung Ấn, xướng lý Đại thừa Duy thức và em là Bồ tát Thế Thân, trước theo Tiểu thừa làm luận Câu xá, sau trở theo Đại thừa cùng với anh em cực lực phát huy lý Duy thức. Do đó Đại thừa phát đạt. Khoảng 1000 năm sau Phật nhập diệt có nhiều vị Đại Đức, Luận sư ra đời, tuyên truyền giáo lý. Đến đây Ấn Độ gồm đủ Không tôn và Hữu tôn, khiến Bà-la-môn khó bề thực hiện cái mộng phục hưng của họ. 

Nếu kế tiếp theo hai lần biến đổi trước, thì lần thứ ba vào thời kiết tập thứ tư, luận Tỳ bà xuất hiện. Lần thư tư vào thời Mã Minh, Long Thọ, lần thứ năm vào thời Bồ tát Vô Trước, Thế Thân ra đời. Trong sự biến đổi này, hai lần trước có tính cách phân chia bộ phái, lần thứ ba có tính cách thống nhất bộ pháichấm dứt sự phân tách Tiểu thừa. Lần thứ tư là Đại thừa Không tôn xuất hiện, qua lần thứ năm Đại thừa Hữu tôn ra đời. Phật giáo thời này là thời cực thạnh nhất.

Nhưng mãi đến khoảng 1.500 năm sau Phật nhập diệt, bên trong vì nghĩa học kém suy, đa số Tăng đồ chỉ chuộng Phật môn hình thức, bên ngoài Bà-la-môn được cơ hội phục hưng, bài xích Phật giáo, lại có Hồi giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ (Turquie) xâm nhập Ấn Độ (1018 sau TL), dùng thủ đoạn khốc liệt gia hại Phật giáo, đập phá chùa tháp, áp bức Tăng, Ni nên Phật giáo phải bị suy vi hầu gần tuyệt tính. Lịch sử Phật giáo Ấn Độ tuy chấm hết nơi đây, song cùng trong lúc Ấn Độ bắt đầu suy tàn thì các nước khác lại hưng thịnh, chẳng hạn Phật giáo ở Trung Hoa nhằm thời thạnh Đường rực rỡ biết bao!

Thời gian trôi qua, ngoại trừ mấy ngôi cổ tháp Phật tích, Phật giáo bắt đầu lưu hành trên đất Ấn Độ. Mãi đến thế kỷ 19, nước Anh cai trị Ấn Độ. Do đó người châu Âu tới lui nghiên cứu Văn hóa Ấn Độ mà trong đó có Phật giáo, họ đã tìm thấy giá trị cao quí của Phật giáo đối với hạnh phúc của nhân loại nên xôn xao khen ngợi, làm cho người Ấn sực tỉnh lại "của quý" của dân tộc mà họ vô tình đã chôn lấp, thì lại liền hô hào: Phục hưng Phật giáo.

Rayendrachilala tiên sinh là một học giả Phật giáo đầu tiên, xuất hiện giữa phong trào nghiên cứu văn hóa Ấn Độ của người Âu Tây. Ông căn cứ về 144 loại kinh về Phạn bản ở Népal, làm ra cuốn "Népal Phật giáo Phạn bổn" (The Sanskrit Buddhist Literature of Nepal) và xuất bản cuốn "Tiểu phẩm Bát nhã" vào năm 1888. Ông là người có công đối với sự nghiên cứu Phật giáo.

Năm 1893, Sarat Chaudradas tiên sinh lại đề xướng lên hội "Nghiên cứu Thánh điển Phật giáo Ấn Độnhân loại học thuật". Người Ấn càng bị kích thích thêm về vấn đề nghiên cứu Phật giáo.

Năm 1891, hội Đại Bồ Đề được thành lập. Hội này có thế lực trong việc vận động phục hưng Phật giáo Ấn Độ hiện thời, có chi bộ đặt tại Nữu Ước, Luân Đôn v.v... xuất bản Nguyệt san "The Maha Bouddhism" để truyền bá Phật giáo khắp Âu Mỹ. Rồi đến "Toàn Tích Lan Phật giáo đại hội" (1928) trước sau thành lập dựa trên một mục đích "chấn hưng Phật giáo".

Gần đây xứ sản sinh Phật đã trỗi dậy mạnh mẽ trở lại, để lãnh đạo Phật giáo khắp toàn cầu. Hội "Phật giáo thế giới" thành lập tại Tích Lan. Mở Đại hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ nhứt vào năm 1950, gồm 500 đại diện và thông tín viên của 25 quốc gia Phật giáo đến dự, tất cả các nước này hóa thành chi bộ của Hội. Sau đó ông Hội trưởng của Hội là Bác sĩ Malalasekera đã lần lượt đi thăm các chi bộ. Hội nghị của Hội mở lần thứ hai tại Nhật Bản năm 1953, và ắt sẽ có hội nghị như vậy nhiều lần nữa. Hội đã xuất bản hai tờ báo News Letter và The Buddhist World, chuyên tải các tin tứcgiáo lý phát hành khắp các nước.

Cho đến năm 1942, nhân dân Ấn khoảng 400 triệu người, đã có 1.157 vạn tín đồ Phật giáo. Đấy là một vinh quang lớn lao Phật giáo khắp thế giới vậy.

II. Phật giáo Việt Nam

Phật giáo Việt Nam bước đầu không phải hoàn toàn do Trung Hoa truyền vào mà do Ấn Độ. Lý do vì đường giao thông bằng đường thủy giữa Ấn Độ và Trung Hoa phải ngang qua Việt Nam. Ngay thế kỷ đầu, Phật giáo Việt Nam đã có, do sự ghé lại của đoàn người buôn Ấn Độtín ngưỡng Phật. Rồi đến cuối thế kỷ thứ II, và đầu thế kỷ thứ III, Phật giáo mới du nhập chính thức do bốn nhân vật dưới đây, trước sau truyền vào:

- Ma ha kỳ vực
- Khương Tăng Hội
- Chí Vương Lương (đều người Ấn).
- Mâu Bác (người Trung Hoa).

Sau Đại đức Tỳ ni đa lưu chi, người Nam Ấn, năm 574 qua Trung Hoa gặp nạn Châu Võ bèn đến đất Hồ Nam gặp Tam tổ Tăng Xán, được Tổ truyền tâm ấnvâng lời Tổ nên năm 580, Ngài qua Việt Nam ở chùa Pháp Vân, tỉnh Hà Đông giáo hóa rồi lập ra phái Thiền tôn thứ nhất. Ngài Pháp Hiền là người thứ nhất Việt Nam được truyền tâm ấn. Từ đó pháp hệ của Ngài được lưu truyền mãi cho đến ngày nay.

Lịch sử truyền bá Phật giáo Việt Nam còn chép có ba đoàn truyền bá Phật giáo Việt Nam:

- Đoàn thứ nhứt có ba vị: Minh Viễn, Tuệ Hạnh. Vô Hành.
- Đoàn thứ hai có ba vị: Đàm Nhuận, Trí Hành, Tăng già bặc ma.
- Đoàn thứ ba có sáu vị: Vân kỳ, Mộc Xoa, Khuy Sung, Tuệ Diệm, Trí Hành và Đại Thặng Đăng.

Trong ba đoàn ấy, ta thấy hai người Trung Hoa, chỉ có Ngài Tăng già bạc ma là người Trung Á, đoàn thứ ba đáng chú ý hơn vì toàn người Việt cả, các Ngài đã qua Trung Hoa, Ấn Độ cầu phápdịch Kinh. Dân Trung Hoa bấy giờ không dám khinh người Việt nữa, chỉ nhờ tài uyên bác của các vị Cao Tăng ấy. Sau đó các Ngài Nhật Nam, Vô Ngại v.v... đã khai thác cho nền văn hóa Quốc giagiáo hóa cho dân tộc rất nhiều.

Khoảng năm 786-836 cũng trong thời thuộc Đường, có Ngài Vô Ngôn Thông Thiền sư, từ Trung Hoa sang ở chùa Kiến Sơ (Bắc Ninh) lập ra phái Thiền tôn thứ II và truyền pháp lại cho Ngài cảm thành.

Tóm lại, Phật giáo Việt Nam từ thời Bắc thuộc lần thứ hai qua đời thời đại Hậu Lý Nam Đế và suốt thời Bắc thuộc lần thứ ba, tuy cũng có lúc ngưng nhưng phần nhiều được phát triển thịnh hành.

Xuống đến các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, bên trong Tu sĩ có các Ngài: Ngô Chân Lưu, Pháp Thuận, Vạn Hạnh, Trần Nhân Tôn, Đa Bảo, Viên Chiếu, Minh Không, Pháp Loa, Huyền Quang v.v... là những bậc cao đức trọng, đứng ra phò vua giúp nước, Pháp sư Ngô Chân Lưu đã được nhà Đinh phong cho chức Khuông Việt Quốc sư, Sư Vạn Hạnh Triều lý (1010-1225) đã gây thanh thế cho nền Văn hóa dân tộc. (Lê Văn Siêu trong cuốn "Nền Văn minh Việt Nam" đã quyết chắc người sáng kiến dựng thành Thăng Long là Sư Vạn Hạnh).

Bên Phật tử có Ngài: Lý Thái Tôn, Trần Quốc Tuấn, Lý Thường Kiệt, Trần Thái Tôn v.v... là những người đã thâm hiểu Phật giáo và làm vẻ vang cho Phật giáo và đất nước. Chẳng hạn Lý Thái Tôn sau khi đánh thắng Chiêm Thành đã phong chức Quốc sư cho vị sư Trung Hoa ở Chiêm Thành bị bắt về và lập ra phái Thiền tôn lần thứ III.

Và vua Trần Nhân Tôn, là một vị vua đại anh hùng của dân tộc đã xuất gia tu hành lập ra phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử với sắc thái Việt Nam, làm kéo dài hưng thịnh Phật giáo.

Tóm lại, Phật giáo các triều này rất thạnh, rất có công lớn trong việc gây dựng cho nền Văn hóa dân tộc lưu truyền đến ngày nay.

Vào thời Nam Bắc phân tranh, Phật giáo chỉ có khuyếch trương môn phái, chẳng có gì vẻ vang, bước sang triều Nguyễn và Pháp thuộc cũng chỉ duy trì chừng đỗi ấy thôi. Sau khi Nguyễn Phúc Ánh viện quân Pháp dẹp Tây Sơn lập ra Triều Nguyễn, từ Gia Long đến Bảo Đại, vua nào cũng có tin Phật, danh Tăng có các Ngài: An Tịnh, An Thiền, Nhất Điện, Diệu Giác hết sức hoằng dương Phật pháp, song chẳng tiến được đến đâu. Phần đông Tăng đồ thời này thất học, chỉ theo uế lợi ô danh, lấy chùa làm gia đình riêng, chuyên việc mưu sinh chứ không có một tinh thần tín ngưỡng chân chánh.

Năm 1930, bước suy vong hầu như qua khỏi bờ tối tăm. Ở Bắc có Hòa thượng Vĩnh Nghiêm, Hòa thượng Tố Cát, Hòa thượng Hằng Sơ và Sư Trí Hải vận động lập ra Hội Phật giáo Bắc Việt, xuất bản tạp chí Đuốc Tuệ. Ở Trung Kỳ lập ra An Nam Phật học Hội năm 1932. Hội quán đặt tại Huế. Hội do các vị Cao Tăng như Hòa thượng Phước Huệ chùa Thập Thập Tháp (Bình Định), Hòa thượng Giác Tiên, Hòa thượng Giác Nhiên, Hòa thượng Tịnh Hạnh, Hòa thượng Tịnh Khiết v.v...và các cư sĩ Nguyễn Khoa Tân, Nguyễn Đình Hòe, Ưng Bàng, đặc biệtBác sĩ Lê Đình Thám, Bác sĩ Trương Xướng, Họa sĩ Nguyễn Khoa Toàn, Nguyễn Hữu Tuân, Cao Xuân Huy... là sáng lập viên của Hội và cho ra tạp chí Viên Âm... Ở Nam có Hòa thượng Lê Khánh Hòa, Huệ Quang, lập ra Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học, ra tạp chí Từ Bi Âm, Duy Tâm và lập Học đường ở Lưỡng Xuyên. Cho đến nay, dầu trải qua thời gian chiến tranh loạn lạc, Phật giáo vẫn phát triển không ngừng. Hội Việt Nam Phật học tại Trung Việt càng bành trướng cả bề rộng lẫn bề sâu. Hội Phật học Nam Việt thành lập, thay cho các Hội trước và xuất bản tạp chí Từ Quang năm 1949. Về cơ quan đào tạo Tăng Ni hiện tại thì ngoài mấy vị học Tăng du học ngoại quốc, trong nuớc có trường Ấn Quang, Dược Sư tại Nam Việt, trường Tăng Học Đường tại Nha Trang, trường Báo Quốc, trường Diệu Đức tại Huế, và các trường tư thục trung học, tiểu học mở khắp các nơi để nâng cao trình độ văn hóa cho dân chúng. "Tổng Hội Phật giáo Việt Nam toàn quốc" được thành lập năm 1952, cũng như Giáo hội Tăng già Trung, Nam, Bắc đều được chỉnh đốn. Những tổ chức mới này tuy chưa phát triển được khả quan song cũng được phát đạt rực rỡ sau này. Đó là điều hy vọng lớn lao mà Phật tử chân chính đang chờ mong và cố gắng phát triển.

III. Phật giáo Trung Hoa

Theo lời đức Khổng Tử trong sách Liệt tử dẫn: "Khâu này nghe phương Tây có bậc Thánh nhân, không trị mà không loạn, không nói mà mọi người đều tin", thì có lẽ Phật giáo đã vang dội đến Trung Hoa khi Phật còn tại thế. Nhưng đến đời Đông Hán (TL-?67) vua Minh Đế mới chính thức du nhập, do Tôn-giả Ma Đằng và Trúc Pháp Lan. Hai vị này theo lời mời qua Trung Hoa ở đất Lạc Dương, chùa Bạch Mã dịch kinh đầu tiên, gồm có 5 bộ: Tứ thập nhị chương, Thập địa đoạn kiết, Pháp hải tuế v.v...Lần nữa, các vị cao Tăng như An Thế Cao v.v... lục tục đến truyền bá. Đời Tần Hán (T310), Tôn-giả Phật Đồ Trừng sang thuyết pháp, tiếp đó nhờ có Tôn-giả Đạo AnLa ThậpPhật giáo hằng truyền mạnh mẽ một thời. Đến đời Nam Bắc triều (khoảng thế kỷ 5, 6) có Tôn-giả Nam Nhạc xướng tông Thiên Thai, Phật giáo Trung Hoa lại càng có thêm sắc thái mới. Thế rồi thứ kỷ thứ 6, Phật giáo bị ách Thái Võ Đế nhà Hầu Ngụy. Cách đời Tuyên Võ, Phật giáo cực thịnh trở lại, lại bị ách Võ Đô Bắc Chu phá hủy lần thứ hai. Mãi đến Đời Đường (Cao Tổ, Thái Tôn Lý Thế Dân) có Tôn-giả Huyền Trang du học Ấn Độ về truyền bá, cùng các Cao Tăng khác đã làm Phật giáo một thời thạnh nhất trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa trước sau. Nhưng từ cuối Đường dân nhà Mãn Thanh, Phật giáo chỉ còn tính cách duy trì, lại gặp phải ách Võ Tôn, Thái Tôn hủy diệt nên Phật giáo cơ hồ bị suy vi hẳn. Đến đời Dân quốc (1911), Phật giáo bắt đầu phục hưng. Trụ cột của sự trùng hưng này là các Cao Tăng Đỗ Nhàn, Thái Hư, Âu Dương, Kỉnh Vô. Nhiều Phật học viện được tổ chức, các báo chí Đại Âm, Hải Triều Âm, Vi Diệu Thanh v.v... ra đời, đã gây ảnh hưởng lớn cho Phật giáo Trung Hoa và lan qua các nước.

Phật giáo đã cung cấp cho nền văn hóa Trung Hoa rất nhiều. Chẳng hạn như nhà Học giả Lương Khải Siêu viết trong bộ Ấm Năng Thất: "Văn bạch thoại có ra nhờ nguồn gốc ở lối văn dịch trong nhà Phật." Tuy nhiên, từ ngày xảy ra Trung Nhật chiến tranh đến nay, Phật giáo ở đó hầu như trở lại cái thời hoang vu loạn lạc của Tam Võ, Nhất Tôn xưa kia...


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14875)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17805)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18221)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14999)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13193)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21168)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32593)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15322)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12350)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12837)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27535)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12138)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34969)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17753)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11828)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12651)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14571)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32476)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19462)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12972)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14088)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14272)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15318)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14145)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14136)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11959)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53183)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11666)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13927)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13822)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20696)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14313)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13435)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13619)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34181)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16211)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14073)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14204)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13567)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15922)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13517)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22982)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27748)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13908)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24979)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13954)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31336)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13867)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15563)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14980)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant