Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

VII. Tình yêu là gì?

09 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 5872)
VII. Tình yêu là gì?

J. KRISHNAMURTI
CÁI GƯƠNG CỦA SỰ LIÊN HỆ
TÌNH YÊU, TÌNH DỤCTRONG TRẮNG
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – Tháng 10-2010 –

VII. TÌNH YÊU LÀ GÌ?

 

T

ôi nhận ra rằng tình yêu không thể hiện diện khi có ghen tuông; tình yêu không thể hiện diện khi có quyến luyến. Bây giờ, liệu tôi có thể được tự do khỏi ghen tuông và quyến luyến? Tôi nhận ra rằng tôi không thương yêu. Đó là một sự kiện. Tôi sẽ không tự-dối gạt mình; tôi sẽ không giả vờ với người vợ của tôi rằng tôi thương yêu cô ấy. Tôi không biết tình yêu là gì. Nhưng tôi có biết rằng tôi ghen tuông và tôi có biết rằng tôi quyến luyến cô ấy biết chừng nào và rằng trong quyến luyến đó có sợ hãi, có ghen tuông, lo lắng; có một ý thức của phụ thuộc. Tôi không ưa thích bị phụ thuộc nhưng tôi bị phụ thuộc bởi vì tôi cô độc; tôi bị sai bảo loanh quanhvăn phòng, trong nhà máy và tôi về nhà và tôi muốn cảm thấy thanh thản và có tình bầu bạn, để tẩu thoát khỏi chính tôi. Lúc này, tôi tự hỏi mình: Làm thế nào tôi sẽ được tự do khỏi sự quyến luyến này? Tôi đang đưa ra điều đó như một ví dụ.

 Thoạt đầu, tôi muốn chạy trốn khỏi câu hỏi. Tôi không biết làm thế nào tôi sẽ chấm dứt với người vợ của tôi? Khi tôi thực sự được tách khỏi cô ấy, sự liên hệ của tôi với cô ấy có lẽ thay đổi. Cô ấy có lẽ quyến luyến tôi và tôi có lẽ không quyến luyến cô ấy hay người phụ nữ nào khác. Nhưng tôi sẽ tìm hiểu. Vì vậy tôi sẽ không tẩu thoát khỏi điều gì tôi tưởng tượng có lẽ là kết quả của hoàn toàn được tự do khỏi tất cả sự quyến luyến. Tôi không biết tình yêu là gì, nhưng tôi thấy rất rõ ràng, dứt khoát, không có bất kỳ ngờ vực nào, rằng sự quyến luyến đến người vợ của tôi có nghĩa ghen tuông, sở hữu, sợ hãi, lo lắng, và tôi muốn tự do khỏi tất cả điều đó. Vì vậy, tôi bắt đầu tìm hiểu; tôi tìm kiếm một phương pháp và tôi bị trói buộc trong một hệ thống. Vị đạo sư nào đó nói, ‘Tôi sẽ giúp đỡ bạn tách lìa, làm điều này và điều này; luyện tập cái này và cái này’. Tôi chấp nhận điều gì ông ấy nói bởi vì tôi thấy sự quan trọng của được tự do và ông ấy hứa hẹn với tôi rằng nếu tôi làm điều gì ông ấy chỉ bảo tôi sẽ nhận được phần thưởng. Nhưng theo cách đó tôi thấy rằng tôi đang tìm kiếm một phần thưởng. Tôi thấy rằng tôi dại dột làm sao đâu; đang mong muốn được tự do nhưng lại bị quyến luyến vào một phần thưởng.

 Tôi không muốn bị quyến luyếntuy nhiên tôi phát hiện chính mình đang bị quyến luyến vào ý tưởng rằng người nào đó, hay quyển sách nào đó, hay phương pháp nào đó, sẽ tưởng thưởng cho tôi sự tự do khỏi quyến luyến. Thế là, phần thưởng trở thành một quyến luyến. Vì vậy tôi nói, ‘Hãy nhìn điều gì tôi đã làm; hãy cẩn thận, đừng bị trói buộc trong cái bẫy đó.’ Dù nó là một người đàn bà, một phương pháp, hay một ý tưởng, nó vẫn còn là sự quyến luyến.

 Tôi tự hỏi mình, ‘Tôi sẽ làm gì để được tự do khỏi sự quyến luyến?’ Động cơ của tôi trong muốn được tự do khỏi sự quyến luyến là gì? Không phải vì rằng tôi muốn đạt được một trạng thái nơi không có quyến luyến, không có sợ hãi, và vân vân, hay sao? Và bỗng nhiên tôi nhận ra rằng động cơ tạo ra phương hướngphương hướng đó sẽ sai khiến sự tự do của tôi. Tại sao có một động cơ? Động cơ là gì? Một động cơ là một hy vọng, hay một ham muốn, để đạt được cái gì đó. Tôi thấy rằng tôi bị quyến luyến vào một động cơ. Không chỉ người vợ của tôi, không chỉ ý tưởng của tôi, phương pháp, nhưng còn cả động cơ của tôi đã trở thành sự quyến luyến của tôi! Thế là, tôi luôn luôn đang vận hành trong lãnh vực của sự quyến luyến – người vợ, phương pháp, và động cơ để đạt được cái gì đó trong tương lai. Tôi bị quyến luyến vào tất cả những điều này. Tôi thấy rằng nó là một vấn đề phức tạp lạ lùng; tôi đã không nhận ra rằng muốn được tự do khỏi sự quyến luyến hàm ý tất cả điều này. Lúc này tôi thấy điều đó rõ ràng như tôi thấy trên bản đồ những con đường chính, những con đường phụ, những ngôi làng; tôi thấy nó rất rõ ràng. Tiếp theo tôi tự nhủ mình, ‘Bây giờ, liệu tôi có thể được tự do khỏi sự quyến luyến sâu đậm mà tôi có đối với người vợ của tôi và cũng đối với phần thưởng mà tôi nghĩ tôi sẽ nhận được và đối với động cơ của tôi?’ Tôi bị quyến luyến vào tất cả điều này. Tại sao? Có phải rằng tôi bị nghèo khó trong chính tôi? Có phải rằng tôi rất, rất cô độcvì vậy tìm kiếm để tẩu thoát khỏi cảm thấy của cô độc đó – bằng cách nương nhờ một người đàn bà, một ý tưởng, một động cơ – như thể tôi phải bám vào cái gì đó? Tôi thấy rằng nó là như thế: Tôi bị cô độc và qua sự quyến luyến vào cái gì đó, tôi đang tẩu thoát khỏi cảm thấy của sự cô độc lạ lùng đó.

 Vì vậy, tôi quan tâm đến sự hiểu rõ tại sao tôi bị cô độc, bởi vì tôi thấy chính là điều đó làm cho tôi bị quyến luyến. Sự cô độc đó đã ép buộc tôi tẩu thoát qua sự quyến luyến vào cái này hay cái kia, và tôi thấy rằng chừng nào tôi còn bị cô độc, những sự việc tiếp theo sẽ luôn luôn như thế này. Cô độc có nghĩa gì? Liệu nó là bản năng, vốn có sẵn, hay liệu nó được tạo ra bởi hoạt động hàng ngày của tôi? Nếu nó là bản năng, nếu nó vốn có sẵn, nó là một phần thuộc số mạng của tôi; tôi không đáng bị khiển trách. Nhưng bởi vì tôi không chấp nhận điều này, tôi nghi ngờ nó và ở lại cùng nghi vấn. Tôi đang nhìn ngắm và không đang cố gắng tìm được một đáp án thuộc trí năng. Tôi không đang cố gắng bảo sự cô độc nó nên làm gì, hay nó là gì; tôi đang nhìn ngắm cho nó nói rõ cho tôi. Có một tỉnh táo cho sự cô độc tự-phơi bày chính nó. Nó sẽ không tự-phơi bày chính nó nếu tôi tẩu thoát; nếu tôi bị sợ hãi; nếu tôi kháng cự nó. Vì vậy tôi nhìn ngắm nó. Tôi nhìn ngắm nó đến độ không suy nghĩ nào can thiệp. Đang nhìn ngắm còn quan trọng hơn suy nghĩ đang chen vào. Và bởi vì toàn năng lượng của tôi quan tâm đến sự nhìn ngắm trạng thái cô độc đó, suy nghĩ không kịp chen vào. Cái trí đang được thách thức và nó phải trả lời. Bởi vì bị thách thức, nó là một khủng hoảng. Trong một khủng hoảng, bạn có năng lượng vô hạn, và năng lượng đó vẫn còn y nguyên mà không bị can thiệp bởi suy nghĩ. Đây là một thách thức phải được trả lời.

 Tôi bắt đầu có một đối thoại cùng chính tôi. Tôi tự hỏi chính mình, cái sự việc lạ lùng được gọi là tình yêu này là gì; mọi người nói về nó, viết về nó – tất cả những bài thơ, những bức tranh, tình dục lãng mạn, và tất cả những lãnh vực khác của nó? Tôi hỏi: ‘Liệu có một sự việc như là tình yêu?’ Tôi thấy nó không hiện diện khi có ghen tuông, căm hận, sợ hãi. Thế là tôi không quan tâm đến tình yêu nữa; tôi quan tâm đến cái gì là: sợ hãi của tôi, quyến luyến của tôi. Tại sao tôi bị quyến luyến? Tôi thấy một trong những lý do – tôi không nói nó là tất cả lý do – là rằng tôi bị cô độc, bị tách rời. Tôi càng lớn tuổi bao nhiêu, tôi càng trở nên cô lập bấy nhiêu. Vì vậy tôi nhìn ngắm nó. Đây là một thách thức phải tìm ra, và bởi vì nó là một thách thức, tất cả năng lượng hiện diện ở đó để phản ứng. Điều đó đơn giản. Nếu có một thảm họa nào đó, một tai nạn hay bất kỳ điều gì, nó là một thách thức, và tôi có năng lượng để gặp gỡ nó. Tôi không phải hỏi: ‘Làm thế nào tôi nhận được năng lượng này?’ Khi ngôi nhà đang cháy tôi có năng lượng để chạy thoát, năng lượng lạ thường. Tôi không ngồi ngả người ra và nói: ‘Ồ, tôi phải nhận được năng lượng này’ rồi sau đó chờ đợi; toàn ngôi nhà sẽ bị đốt cháy trước lúc đó rồi.

 Thế là, có năng lượng lạ thường để trả lời nghi vấn: Tại sao có trạng thái cô độc này? Tôi đã phủ nhận những ý tưởng, những giả thuyết, và những lý thuyết rằng nó là di truyền, rằng nó thuộc bản năng. Tất cả điều đó không có ý nghĩa gì đối với tôi. Tại sao lại có trạng thái cô độc này mà mỗi con người, nếu anh ấy có nhận biết, đều trải qua, một cách hời hợt hay sâu thẳm? Tại sao nó hiện diện? Liệu có phải rằng cái trí đang làm cái gì đó mà đang tạo ra nó? Tôi đã phủ nhận những lý thuyết về bản năngdi truyền, và tôi đang hỏi: Liệu cái trí, bộ não, chính nó đang tạo ra trạng thái cô lập này, toàn sự tách rời này? Liệu chuyển động của suy nghĩ đang thực hiện điều này? Liệu suy nghĩ trong sống hàng ngày của tôi đang tạo ra ý thức của tách rời này? Trong văn phòng, tôi đang tách rời chính tôi bởi vì tôi muốn trở thành người đứng đầu, vì vậy suy nghĩ luôn luôn đang làm công việc tự-tách rời chính nó. Tôi thấy rằng luôn luôn suy nghĩ đang vận hành để biến nó thành cao cấp hơn, cái trí luôn luôn đang làm việc hướng về sự cô lập này.

 Vậy thì vấn đề là: Tại sao suy nghĩ làm điều này? Liệu bản chất của suy nghĩ là làm việc vì chính nó? Giáo dục tạo ra sự cô lập này; nó trao tặng tôi một nghề nghiệp nào đó, một chuyên môn nào đó, và thế là, cô lập. Suy nghĩ, bởi vì bị phân chia, bị giới hạn, bị thời gian trói buộc, đang tạo ra sự cô lập này. Trong giới hạn đó, nó đã tìm được sự an toàn, nói, ‘Tôi có một nghề nghiệp đặc biệt trong sống của tôi; tôi là một giáo sư; tôi an toàn tuyệt đối.’ Vì vậy sự quan tâm của tôi lúc đó là: Tại sao suy nghĩ làm việc đó? Liệu trong chính bản chất của nó, nó phải thực hiện việc này? Bất kỳ việc gì suy nghĩ thực hiện phải bị giới hạn.

 Bây giờ, vấn đề là: Liệu suy nghĩ có thể nhận ra rằng bất kỳ việc gì nó thực hiện đều bị giới hạn, bị phân chiavì vậy gây tách rời, và rằng bất kỳ việc gì nó thực hiện sẽ vẫn như thế? Đây là một mấu chốt rất quan trọng: Liệu chính suy nghĩ có thể nhận ra những giới hạn riêng của nó? Hay, liệu tôi đang nói với nó rằng nó bị giới hạn? Tôi thấy, hiểu rõ mấu chốt này rất quan trọng; đây là cốt lõi thực sự của vấn đề. Nếu chính suy nghĩ nhận ra rằng nó bị giới hạn, vậy thì không có sự kháng cự, không có sự xung đột; nó nói, ‘Tôi là điều đó.’ Nhưng nếu tôi đang nói với nó rằng nó bị giới hạn, vậy thì tôi trở nên tách rời khỏi sự giới hạn; vậy thì tôi đấu tranh để khuất phục sự giới hạn. Thế là, có xung đột và bạo lực, không phải tình yêu.

 Vì vậy, liệu suy nghĩ nhận ra về chính nó rằng nó bị giới hạn? Tôi phải tìm ra. Tôi đang bị thách thức. Bởi vì tôi bị thách thức, tôi có năng lượng vô hạn. Nói cách khác: Liệu ý thức nhận ra rằng nội dung của nó là chính nó? Hay, bởi vì tôi đã nghe người nào đó nói: ‘Ý thức là nội dung của nó; nội dung của nó tạo thành ý thức’? Thế là tôi nói, ‘Vâng, đúng là như thế.’ Bạn thấy sự khác biệt giữa hai câu? Câu sau, bị tạo ra bởi tư tưởng, bị áp đặt bởi ‘cái tôi’. Nếu tôi áp đặt cái gì đó vào suy nghĩ, vậy thìxung đột. Nó giống như một chính phủ chuyên chế đang áp đặt vào người nào đó, nhưng ở đây chính phủ đó là điều gì tôi đã tạo ra.

 Vì vậy tôi đang hỏi chính mình: Liệu suy nghĩ đã nhận ra những giới hạn riêng của nó? Hay liệu nó đang giả vờ là cái gì đó lạ thường, cao cả, thiêng liêng? – mà là điều vô lý, bởi vì suy nghĩ được đặt nền tảng trên ký ức. Tôi thấy rằng phải có sự rõ ràng về mấu chốt này: rằng không có ảnh hưởng phía bên ngoài đang tác động vào suy nghĩ, đang nói nó bị giới hạn. Vậy thì, bởi vì không có sự áp đặt, không có sự xung đột; đơn giản nó chỉ nhận ra rằng nó bị giới hạn; nó nhận ra rằng bất kỳ việc gì nó thực hiện – sự tôn sùng Thượng đế của nó, và vân vân – đều bị giới hạn, tầm thường, nhỏ nhen – mặc dù nó đã dựng lên những thánh đường nguy nga khắp Châu âu để thờ phụng trong đó.

 Thế là, trong đối thoại với chính tôi của tôi đã có sự khám phá rằng cô độc bị tạo ra bởi suy nghĩ. Bây giờ, suy nghĩ đã nhận ra về chính nó rằng nó bị giới hạnvì vậy không thể giải quyết được vấn đề cô độc. Bởi vì nó không thể giải quyết được vấn đề cô độc, liệu cô độc còn hiện diện? Suy nghĩ đã tạo ra ý thức của cô độc này, trạng thái trống rỗng này, bởi vì nó bị giới hạn, phân chia, tách rời. Và khi nó nhận ra điều này, cô độc không còn; thế là, có sự tự do khỏi quyến luyến. Tôi đã không làm gì cả; tôi đã nhìn ngắm sự quyến luyến, điều gì được hàm ý trong nó – tham lam, sợ hãi, cô độc, tất cả điều đó – và bằng cách theo dõi nó, nhìn ngắm nó, không-phân tích nó, nhưng chỉ đang nhìn ngắm, đang nhìn ngắm và đang nhìn ngắm, có sự khám phá rằng suy nghĩ đã thực hiện tất cả việc này. Tư tưởng, bởi vì nó là tách rời, đã tạo ra sự quyến luyến này. Khi nó nhận ra điều này, sự quyến luyến không còn. Không có nỗ lực nào được thực hiện, bởi vì khoảnh khắc có nỗ lực, xung đột quay lại.

 Trong tình yêu không có quyến luyến; nếu có quyến luyến không có tình yêu. Đã có sự xóa sạch nhân tố chính, qua phủ nhận, về cái gì nó không là, qua sự phủ nhận quyến luyến. Tôi biết nó có nghĩa gì trong sống hàng ngày của tôi: không sự hồi tưởng của bất kỳ điều gì người vợ của tôi, người bạn gái của tôi, hay người hàng xóm của tôi đã làm để gây tổn thương cho tôi; không sự quyến luyến đến bất kỳ hình ảnh nào suy nghĩ đã tạo ra về cô ấy – cô ấy đã dọa nạt tôi như thế nào, cô ấy đã cho tôi sự thoải mái như thế nào, tôi đã hưởng thụ vui thú tình dục như thế nào – tất cả những sự việc khác nhau mà chuyển động của suy nghĩ đã tạo ra những hình ảnh, sự quyến luyến vào những hình ảnh đó đã tan biến.

 Và có những nhân tố khác – liệu tôi phải trải qua tất cả những điều đó dần dần, từng bước một? Hay tất cả nó đều không còn? Liệu tôi phải trải qua, liệu tôi phải tìm hiểu – như tôi đã tìm hiểu quyến luyến, sợ hãi, vui thú, và ham muốn có thanh thản? Tôi thấy rằng tôi không phải trải qua tất cả sự tìm hiểu về những nhân tố khác nhau này; tôi thấy nó trong lóe sáng, tôi đã nắm bắt nó.

 Vậy là, qua sự phủ nhận điều gì không là tình yêu, tình yêu hiện diện. Tôi không phải hỏi tình yêu là gì; tôi không phải theo đuổi nó. Nếu tôi theo đuổi nó, nó là một phần thưởng. Thế là, tôi đã phủ nhận, tôi đã kết thúc, trong sự tìm hiểu đó, chầm chậm, cẩn thận, mà không gây biến dạng, mà không gây ảo tưởng, mọi thứ mà nó không là – cái còn lại hiện diện.

 

 Brockwood Park, Anh

 Ngày 30 tháng 8 năm 1977

 Một đối thoại cùng Chính mình 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14309)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14576)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11850)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14373)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13284)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14653)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12649)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25277)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27908)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26383)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17246)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16533)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15931)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22160)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17143)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24948)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 22005)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19085)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16178)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21733)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16796)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14675)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16720)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25041)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18791)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21202)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14783)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14380)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16627)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18019)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12938)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14953)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12731)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13897)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14619)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28056)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27226)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14356)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20997)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14675)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24210)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28718)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14744)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13306)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16470)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27266)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12023)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16081)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21520)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12385)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant