Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

VII. Tình yêu là gì?

09 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 5873)
VII. Tình yêu là gì?

J. KRISHNAMURTI
CÁI GƯƠNG CỦA SỰ LIÊN HỆ
TÌNH YÊU, TÌNH DỤCTRONG TRẮNG
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – Tháng 10-2010 –

VII. TÌNH YÊU LÀ GÌ?

 

T

ôi nhận ra rằng tình yêu không thể hiện diện khi có ghen tuông; tình yêu không thể hiện diện khi có quyến luyến. Bây giờ, liệu tôi có thể được tự do khỏi ghen tuông và quyến luyến? Tôi nhận ra rằng tôi không thương yêu. Đó là một sự kiện. Tôi sẽ không tự-dối gạt mình; tôi sẽ không giả vờ với người vợ của tôi rằng tôi thương yêu cô ấy. Tôi không biết tình yêu là gì. Nhưng tôi có biết rằng tôi ghen tuông và tôi có biết rằng tôi quyến luyến cô ấy biết chừng nào và rằng trong quyến luyến đó có sợ hãi, có ghen tuông, lo lắng; có một ý thức của phụ thuộc. Tôi không ưa thích bị phụ thuộc nhưng tôi bị phụ thuộc bởi vì tôi cô độc; tôi bị sai bảo loanh quanhvăn phòng, trong nhà máy và tôi về nhà và tôi muốn cảm thấy thanh thản và có tình bầu bạn, để tẩu thoát khỏi chính tôi. Lúc này, tôi tự hỏi mình: Làm thế nào tôi sẽ được tự do khỏi sự quyến luyến này? Tôi đang đưa ra điều đó như một ví dụ.

 Thoạt đầu, tôi muốn chạy trốn khỏi câu hỏi. Tôi không biết làm thế nào tôi sẽ chấm dứt với người vợ của tôi? Khi tôi thực sự được tách khỏi cô ấy, sự liên hệ của tôi với cô ấy có lẽ thay đổi. Cô ấy có lẽ quyến luyến tôi và tôi có lẽ không quyến luyến cô ấy hay người phụ nữ nào khác. Nhưng tôi sẽ tìm hiểu. Vì vậy tôi sẽ không tẩu thoát khỏi điều gì tôi tưởng tượng có lẽ là kết quả của hoàn toàn được tự do khỏi tất cả sự quyến luyến. Tôi không biết tình yêu là gì, nhưng tôi thấy rất rõ ràng, dứt khoát, không có bất kỳ ngờ vực nào, rằng sự quyến luyến đến người vợ của tôi có nghĩa ghen tuông, sở hữu, sợ hãi, lo lắng, và tôi muốn tự do khỏi tất cả điều đó. Vì vậy, tôi bắt đầu tìm hiểu; tôi tìm kiếm một phương pháp và tôi bị trói buộc trong một hệ thống. Vị đạo sư nào đó nói, ‘Tôi sẽ giúp đỡ bạn tách lìa, làm điều này và điều này; luyện tập cái này và cái này’. Tôi chấp nhận điều gì ông ấy nói bởi vì tôi thấy sự quan trọng của được tự do và ông ấy hứa hẹn với tôi rằng nếu tôi làm điều gì ông ấy chỉ bảo tôi sẽ nhận được phần thưởng. Nhưng theo cách đó tôi thấy rằng tôi đang tìm kiếm một phần thưởng. Tôi thấy rằng tôi dại dột làm sao đâu; đang mong muốn được tự do nhưng lại bị quyến luyến vào một phần thưởng.

 Tôi không muốn bị quyến luyếntuy nhiên tôi phát hiện chính mình đang bị quyến luyến vào ý tưởng rằng người nào đó, hay quyển sách nào đó, hay phương pháp nào đó, sẽ tưởng thưởng cho tôi sự tự do khỏi quyến luyến. Thế là, phần thưởng trở thành một quyến luyến. Vì vậy tôi nói, ‘Hãy nhìn điều gì tôi đã làm; hãy cẩn thận, đừng bị trói buộc trong cái bẫy đó.’ Dù nó là một người đàn bà, một phương pháp, hay một ý tưởng, nó vẫn còn là sự quyến luyến.

 Tôi tự hỏi mình, ‘Tôi sẽ làm gì để được tự do khỏi sự quyến luyến?’ Động cơ của tôi trong muốn được tự do khỏi sự quyến luyến là gì? Không phải vì rằng tôi muốn đạt được một trạng thái nơi không có quyến luyến, không có sợ hãi, và vân vân, hay sao? Và bỗng nhiên tôi nhận ra rằng động cơ tạo ra phương hướngphương hướng đó sẽ sai khiến sự tự do của tôi. Tại sao có một động cơ? Động cơ là gì? Một động cơ là một hy vọng, hay một ham muốn, để đạt được cái gì đó. Tôi thấy rằng tôi bị quyến luyến vào một động cơ. Không chỉ người vợ của tôi, không chỉ ý tưởng của tôi, phương pháp, nhưng còn cả động cơ của tôi đã trở thành sự quyến luyến của tôi! Thế là, tôi luôn luôn đang vận hành trong lãnh vực của sự quyến luyến – người vợ, phương pháp, và động cơ để đạt được cái gì đó trong tương lai. Tôi bị quyến luyến vào tất cả những điều này. Tôi thấy rằng nó là một vấn đề phức tạp lạ lùng; tôi đã không nhận ra rằng muốn được tự do khỏi sự quyến luyến hàm ý tất cả điều này. Lúc này tôi thấy điều đó rõ ràng như tôi thấy trên bản đồ những con đường chính, những con đường phụ, những ngôi làng; tôi thấy nó rất rõ ràng. Tiếp theo tôi tự nhủ mình, ‘Bây giờ, liệu tôi có thể được tự do khỏi sự quyến luyến sâu đậm mà tôi có đối với người vợ của tôi và cũng đối với phần thưởng mà tôi nghĩ tôi sẽ nhận được và đối với động cơ của tôi?’ Tôi bị quyến luyến vào tất cả điều này. Tại sao? Có phải rằng tôi bị nghèo khó trong chính tôi? Có phải rằng tôi rất, rất cô độcvì vậy tìm kiếm để tẩu thoát khỏi cảm thấy của cô độc đó – bằng cách nương nhờ một người đàn bà, một ý tưởng, một động cơ – như thể tôi phải bám vào cái gì đó? Tôi thấy rằng nó là như thế: Tôi bị cô độc và qua sự quyến luyến vào cái gì đó, tôi đang tẩu thoát khỏi cảm thấy của sự cô độc lạ lùng đó.

 Vì vậy, tôi quan tâm đến sự hiểu rõ tại sao tôi bị cô độc, bởi vì tôi thấy chính là điều đó làm cho tôi bị quyến luyến. Sự cô độc đó đã ép buộc tôi tẩu thoát qua sự quyến luyến vào cái này hay cái kia, và tôi thấy rằng chừng nào tôi còn bị cô độc, những sự việc tiếp theo sẽ luôn luôn như thế này. Cô độc có nghĩa gì? Liệu nó là bản năng, vốn có sẵn, hay liệu nó được tạo ra bởi hoạt động hàng ngày của tôi? Nếu nó là bản năng, nếu nó vốn có sẵn, nó là một phần thuộc số mạng của tôi; tôi không đáng bị khiển trách. Nhưng bởi vì tôi không chấp nhận điều này, tôi nghi ngờ nó và ở lại cùng nghi vấn. Tôi đang nhìn ngắm và không đang cố gắng tìm được một đáp án thuộc trí năng. Tôi không đang cố gắng bảo sự cô độc nó nên làm gì, hay nó là gì; tôi đang nhìn ngắm cho nó nói rõ cho tôi. Có một tỉnh táo cho sự cô độc tự-phơi bày chính nó. Nó sẽ không tự-phơi bày chính nó nếu tôi tẩu thoát; nếu tôi bị sợ hãi; nếu tôi kháng cự nó. Vì vậy tôi nhìn ngắm nó. Tôi nhìn ngắm nó đến độ không suy nghĩ nào can thiệp. Đang nhìn ngắm còn quan trọng hơn suy nghĩ đang chen vào. Và bởi vì toàn năng lượng của tôi quan tâm đến sự nhìn ngắm trạng thái cô độc đó, suy nghĩ không kịp chen vào. Cái trí đang được thách thức và nó phải trả lời. Bởi vì bị thách thức, nó là một khủng hoảng. Trong một khủng hoảng, bạn có năng lượng vô hạn, và năng lượng đó vẫn còn y nguyên mà không bị can thiệp bởi suy nghĩ. Đây là một thách thức phải được trả lời.

 Tôi bắt đầu có một đối thoại cùng chính tôi. Tôi tự hỏi chính mình, cái sự việc lạ lùng được gọi là tình yêu này là gì; mọi người nói về nó, viết về nó – tất cả những bài thơ, những bức tranh, tình dục lãng mạn, và tất cả những lãnh vực khác của nó? Tôi hỏi: ‘Liệu có một sự việc như là tình yêu?’ Tôi thấy nó không hiện diện khi có ghen tuông, căm hận, sợ hãi. Thế là tôi không quan tâm đến tình yêu nữa; tôi quan tâm đến cái gì là: sợ hãi của tôi, quyến luyến của tôi. Tại sao tôi bị quyến luyến? Tôi thấy một trong những lý do – tôi không nói nó là tất cả lý do – là rằng tôi bị cô độc, bị tách rời. Tôi càng lớn tuổi bao nhiêu, tôi càng trở nên cô lập bấy nhiêu. Vì vậy tôi nhìn ngắm nó. Đây là một thách thức phải tìm ra, và bởi vì nó là một thách thức, tất cả năng lượng hiện diện ở đó để phản ứng. Điều đó đơn giản. Nếu có một thảm họa nào đó, một tai nạn hay bất kỳ điều gì, nó là một thách thức, và tôi có năng lượng để gặp gỡ nó. Tôi không phải hỏi: ‘Làm thế nào tôi nhận được năng lượng này?’ Khi ngôi nhà đang cháy tôi có năng lượng để chạy thoát, năng lượng lạ thường. Tôi không ngồi ngả người ra và nói: ‘Ồ, tôi phải nhận được năng lượng này’ rồi sau đó chờ đợi; toàn ngôi nhà sẽ bị đốt cháy trước lúc đó rồi.

 Thế là, có năng lượng lạ thường để trả lời nghi vấn: Tại sao có trạng thái cô độc này? Tôi đã phủ nhận những ý tưởng, những giả thuyết, và những lý thuyết rằng nó là di truyền, rằng nó thuộc bản năng. Tất cả điều đó không có ý nghĩa gì đối với tôi. Tại sao lại có trạng thái cô độc này mà mỗi con người, nếu anh ấy có nhận biết, đều trải qua, một cách hời hợt hay sâu thẳm? Tại sao nó hiện diện? Liệu có phải rằng cái trí đang làm cái gì đó mà đang tạo ra nó? Tôi đã phủ nhận những lý thuyết về bản năngdi truyền, và tôi đang hỏi: Liệu cái trí, bộ não, chính nó đang tạo ra trạng thái cô lập này, toàn sự tách rời này? Liệu chuyển động của suy nghĩ đang thực hiện điều này? Liệu suy nghĩ trong sống hàng ngày của tôi đang tạo ra ý thức của tách rời này? Trong văn phòng, tôi đang tách rời chính tôi bởi vì tôi muốn trở thành người đứng đầu, vì vậy suy nghĩ luôn luôn đang làm công việc tự-tách rời chính nó. Tôi thấy rằng luôn luôn suy nghĩ đang vận hành để biến nó thành cao cấp hơn, cái trí luôn luôn đang làm việc hướng về sự cô lập này.

 Vậy thì vấn đề là: Tại sao suy nghĩ làm điều này? Liệu bản chất của suy nghĩ là làm việc vì chính nó? Giáo dục tạo ra sự cô lập này; nó trao tặng tôi một nghề nghiệp nào đó, một chuyên môn nào đó, và thế là, cô lập. Suy nghĩ, bởi vì bị phân chia, bị giới hạn, bị thời gian trói buộc, đang tạo ra sự cô lập này. Trong giới hạn đó, nó đã tìm được sự an toàn, nói, ‘Tôi có một nghề nghiệp đặc biệt trong sống của tôi; tôi là một giáo sư; tôi an toàn tuyệt đối.’ Vì vậy sự quan tâm của tôi lúc đó là: Tại sao suy nghĩ làm việc đó? Liệu trong chính bản chất của nó, nó phải thực hiện việc này? Bất kỳ việc gì suy nghĩ thực hiện phải bị giới hạn.

 Bây giờ, vấn đề là: Liệu suy nghĩ có thể nhận ra rằng bất kỳ việc gì nó thực hiện đều bị giới hạn, bị phân chiavì vậy gây tách rời, và rằng bất kỳ việc gì nó thực hiện sẽ vẫn như thế? Đây là một mấu chốt rất quan trọng: Liệu chính suy nghĩ có thể nhận ra những giới hạn riêng của nó? Hay, liệu tôi đang nói với nó rằng nó bị giới hạn? Tôi thấy, hiểu rõ mấu chốt này rất quan trọng; đây là cốt lõi thực sự của vấn đề. Nếu chính suy nghĩ nhận ra rằng nó bị giới hạn, vậy thì không có sự kháng cự, không có sự xung đột; nó nói, ‘Tôi là điều đó.’ Nhưng nếu tôi đang nói với nó rằng nó bị giới hạn, vậy thì tôi trở nên tách rời khỏi sự giới hạn; vậy thì tôi đấu tranh để khuất phục sự giới hạn. Thế là, có xung đột và bạo lực, không phải tình yêu.

 Vì vậy, liệu suy nghĩ nhận ra về chính nó rằng nó bị giới hạn? Tôi phải tìm ra. Tôi đang bị thách thức. Bởi vì tôi bị thách thức, tôi có năng lượng vô hạn. Nói cách khác: Liệu ý thức nhận ra rằng nội dung của nó là chính nó? Hay, bởi vì tôi đã nghe người nào đó nói: ‘Ý thức là nội dung của nó; nội dung của nó tạo thành ý thức’? Thế là tôi nói, ‘Vâng, đúng là như thế.’ Bạn thấy sự khác biệt giữa hai câu? Câu sau, bị tạo ra bởi tư tưởng, bị áp đặt bởi ‘cái tôi’. Nếu tôi áp đặt cái gì đó vào suy nghĩ, vậy thìxung đột. Nó giống như một chính phủ chuyên chế đang áp đặt vào người nào đó, nhưng ở đây chính phủ đó là điều gì tôi đã tạo ra.

 Vì vậy tôi đang hỏi chính mình: Liệu suy nghĩ đã nhận ra những giới hạn riêng của nó? Hay liệu nó đang giả vờ là cái gì đó lạ thường, cao cả, thiêng liêng? – mà là điều vô lý, bởi vì suy nghĩ được đặt nền tảng trên ký ức. Tôi thấy rằng phải có sự rõ ràng về mấu chốt này: rằng không có ảnh hưởng phía bên ngoài đang tác động vào suy nghĩ, đang nói nó bị giới hạn. Vậy thì, bởi vì không có sự áp đặt, không có sự xung đột; đơn giản nó chỉ nhận ra rằng nó bị giới hạn; nó nhận ra rằng bất kỳ việc gì nó thực hiện – sự tôn sùng Thượng đế của nó, và vân vân – đều bị giới hạn, tầm thường, nhỏ nhen – mặc dù nó đã dựng lên những thánh đường nguy nga khắp Châu âu để thờ phụng trong đó.

 Thế là, trong đối thoại với chính tôi của tôi đã có sự khám phá rằng cô độc bị tạo ra bởi suy nghĩ. Bây giờ, suy nghĩ đã nhận ra về chính nó rằng nó bị giới hạnvì vậy không thể giải quyết được vấn đề cô độc. Bởi vì nó không thể giải quyết được vấn đề cô độc, liệu cô độc còn hiện diện? Suy nghĩ đã tạo ra ý thức của cô độc này, trạng thái trống rỗng này, bởi vì nó bị giới hạn, phân chia, tách rời. Và khi nó nhận ra điều này, cô độc không còn; thế là, có sự tự do khỏi quyến luyến. Tôi đã không làm gì cả; tôi đã nhìn ngắm sự quyến luyến, điều gì được hàm ý trong nó – tham lam, sợ hãi, cô độc, tất cả điều đó – và bằng cách theo dõi nó, nhìn ngắm nó, không-phân tích nó, nhưng chỉ đang nhìn ngắm, đang nhìn ngắm và đang nhìn ngắm, có sự khám phá rằng suy nghĩ đã thực hiện tất cả việc này. Tư tưởng, bởi vì nó là tách rời, đã tạo ra sự quyến luyến này. Khi nó nhận ra điều này, sự quyến luyến không còn. Không có nỗ lực nào được thực hiện, bởi vì khoảnh khắc có nỗ lực, xung đột quay lại.

 Trong tình yêu không có quyến luyến; nếu có quyến luyến không có tình yêu. Đã có sự xóa sạch nhân tố chính, qua phủ nhận, về cái gì nó không là, qua sự phủ nhận quyến luyến. Tôi biết nó có nghĩa gì trong sống hàng ngày của tôi: không sự hồi tưởng của bất kỳ điều gì người vợ của tôi, người bạn gái của tôi, hay người hàng xóm của tôi đã làm để gây tổn thương cho tôi; không sự quyến luyến đến bất kỳ hình ảnh nào suy nghĩ đã tạo ra về cô ấy – cô ấy đã dọa nạt tôi như thế nào, cô ấy đã cho tôi sự thoải mái như thế nào, tôi đã hưởng thụ vui thú tình dục như thế nào – tất cả những sự việc khác nhau mà chuyển động của suy nghĩ đã tạo ra những hình ảnh, sự quyến luyến vào những hình ảnh đó đã tan biến.

 Và có những nhân tố khác – liệu tôi phải trải qua tất cả những điều đó dần dần, từng bước một? Hay tất cả nó đều không còn? Liệu tôi phải trải qua, liệu tôi phải tìm hiểu – như tôi đã tìm hiểu quyến luyến, sợ hãi, vui thú, và ham muốn có thanh thản? Tôi thấy rằng tôi không phải trải qua tất cả sự tìm hiểu về những nhân tố khác nhau này; tôi thấy nó trong lóe sáng, tôi đã nắm bắt nó.

 Vậy là, qua sự phủ nhận điều gì không là tình yêu, tình yêu hiện diện. Tôi không phải hỏi tình yêu là gì; tôi không phải theo đuổi nó. Nếu tôi theo đuổi nó, nó là một phần thưởng. Thế là, tôi đã phủ nhận, tôi đã kết thúc, trong sự tìm hiểu đó, chầm chậm, cẩn thận, mà không gây biến dạng, mà không gây ảo tưởng, mọi thứ mà nó không là – cái còn lại hiện diện.

 

 Brockwood Park, Anh

 Ngày 30 tháng 8 năm 1977

 Một đối thoại cùng Chính mình 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10212)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11272)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13610)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13758)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22257)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21888)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27424)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17820)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11752)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12338)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25264)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23312)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28624)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22808)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25753)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22336)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14023)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13454)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22533)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26430)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18508)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18984)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34560)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27421)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28471)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21433)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14926)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19242)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10638)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18597)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15688)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13204)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13436)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14048)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11814)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11649)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11363)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11917)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19959)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12413)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13961)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13285)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 32021)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13454)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12769)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13348)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11916)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21901)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11111)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12918)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant