Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

VII. Tình yêu là gì?

09 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 5858)
VII. Tình yêu là gì?

J. KRISHNAMURTI
CÁI GƯƠNG CỦA SỰ LIÊN HỆ
TÌNH YÊU, TÌNH DỤCTRONG TRẮNG
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – Tháng 10-2010 –

VII. TÌNH YÊU LÀ GÌ?

 

T

ôi nhận ra rằng tình yêu không thể hiện diện khi có ghen tuông; tình yêu không thể hiện diện khi có quyến luyến. Bây giờ, liệu tôi có thể được tự do khỏi ghen tuông và quyến luyến? Tôi nhận ra rằng tôi không thương yêu. Đó là một sự kiện. Tôi sẽ không tự-dối gạt mình; tôi sẽ không giả vờ với người vợ của tôi rằng tôi thương yêu cô ấy. Tôi không biết tình yêu là gì. Nhưng tôi có biết rằng tôi ghen tuông và tôi có biết rằng tôi quyến luyến cô ấy biết chừng nào và rằng trong quyến luyến đó có sợ hãi, có ghen tuông, lo lắng; có một ý thức của phụ thuộc. Tôi không ưa thích bị phụ thuộc nhưng tôi bị phụ thuộc bởi vì tôi cô độc; tôi bị sai bảo loanh quanhvăn phòng, trong nhà máy và tôi về nhà và tôi muốn cảm thấy thanh thản và có tình bầu bạn, để tẩu thoát khỏi chính tôi. Lúc này, tôi tự hỏi mình: Làm thế nào tôi sẽ được tự do khỏi sự quyến luyến này? Tôi đang đưa ra điều đó như một ví dụ.

 Thoạt đầu, tôi muốn chạy trốn khỏi câu hỏi. Tôi không biết làm thế nào tôi sẽ chấm dứt với người vợ của tôi? Khi tôi thực sự được tách khỏi cô ấy, sự liên hệ của tôi với cô ấy có lẽ thay đổi. Cô ấy có lẽ quyến luyến tôi và tôi có lẽ không quyến luyến cô ấy hay người phụ nữ nào khác. Nhưng tôi sẽ tìm hiểu. Vì vậy tôi sẽ không tẩu thoát khỏi điều gì tôi tưởng tượng có lẽ là kết quả của hoàn toàn được tự do khỏi tất cả sự quyến luyến. Tôi không biết tình yêu là gì, nhưng tôi thấy rất rõ ràng, dứt khoát, không có bất kỳ ngờ vực nào, rằng sự quyến luyến đến người vợ của tôi có nghĩa ghen tuông, sở hữu, sợ hãi, lo lắng, và tôi muốn tự do khỏi tất cả điều đó. Vì vậy, tôi bắt đầu tìm hiểu; tôi tìm kiếm một phương pháp và tôi bị trói buộc trong một hệ thống. Vị đạo sư nào đó nói, ‘Tôi sẽ giúp đỡ bạn tách lìa, làm điều này và điều này; luyện tập cái này và cái này’. Tôi chấp nhận điều gì ông ấy nói bởi vì tôi thấy sự quan trọng của được tự do và ông ấy hứa hẹn với tôi rằng nếu tôi làm điều gì ông ấy chỉ bảo tôi sẽ nhận được phần thưởng. Nhưng theo cách đó tôi thấy rằng tôi đang tìm kiếm một phần thưởng. Tôi thấy rằng tôi dại dột làm sao đâu; đang mong muốn được tự do nhưng lại bị quyến luyến vào một phần thưởng.

 Tôi không muốn bị quyến luyếntuy nhiên tôi phát hiện chính mình đang bị quyến luyến vào ý tưởng rằng người nào đó, hay quyển sách nào đó, hay phương pháp nào đó, sẽ tưởng thưởng cho tôi sự tự do khỏi quyến luyến. Thế là, phần thưởng trở thành một quyến luyến. Vì vậy tôi nói, ‘Hãy nhìn điều gì tôi đã làm; hãy cẩn thận, đừng bị trói buộc trong cái bẫy đó.’ Dù nó là một người đàn bà, một phương pháp, hay một ý tưởng, nó vẫn còn là sự quyến luyến.

 Tôi tự hỏi mình, ‘Tôi sẽ làm gì để được tự do khỏi sự quyến luyến?’ Động cơ của tôi trong muốn được tự do khỏi sự quyến luyến là gì? Không phải vì rằng tôi muốn đạt được một trạng thái nơi không có quyến luyến, không có sợ hãi, và vân vân, hay sao? Và bỗng nhiên tôi nhận ra rằng động cơ tạo ra phương hướngphương hướng đó sẽ sai khiến sự tự do của tôi. Tại sao có một động cơ? Động cơ là gì? Một động cơ là một hy vọng, hay một ham muốn, để đạt được cái gì đó. Tôi thấy rằng tôi bị quyến luyến vào một động cơ. Không chỉ người vợ của tôi, không chỉ ý tưởng của tôi, phương pháp, nhưng còn cả động cơ của tôi đã trở thành sự quyến luyến của tôi! Thế là, tôi luôn luôn đang vận hành trong lãnh vực của sự quyến luyến – người vợ, phương pháp, và động cơ để đạt được cái gì đó trong tương lai. Tôi bị quyến luyến vào tất cả những điều này. Tôi thấy rằng nó là một vấn đề phức tạp lạ lùng; tôi đã không nhận ra rằng muốn được tự do khỏi sự quyến luyến hàm ý tất cả điều này. Lúc này tôi thấy điều đó rõ ràng như tôi thấy trên bản đồ những con đường chính, những con đường phụ, những ngôi làng; tôi thấy nó rất rõ ràng. Tiếp theo tôi tự nhủ mình, ‘Bây giờ, liệu tôi có thể được tự do khỏi sự quyến luyến sâu đậm mà tôi có đối với người vợ của tôi và cũng đối với phần thưởng mà tôi nghĩ tôi sẽ nhận được và đối với động cơ của tôi?’ Tôi bị quyến luyến vào tất cả điều này. Tại sao? Có phải rằng tôi bị nghèo khó trong chính tôi? Có phải rằng tôi rất, rất cô độcvì vậy tìm kiếm để tẩu thoát khỏi cảm thấy của cô độc đó – bằng cách nương nhờ một người đàn bà, một ý tưởng, một động cơ – như thể tôi phải bám vào cái gì đó? Tôi thấy rằng nó là như thế: Tôi bị cô độc và qua sự quyến luyến vào cái gì đó, tôi đang tẩu thoát khỏi cảm thấy của sự cô độc lạ lùng đó.

 Vì vậy, tôi quan tâm đến sự hiểu rõ tại sao tôi bị cô độc, bởi vì tôi thấy chính là điều đó làm cho tôi bị quyến luyến. Sự cô độc đó đã ép buộc tôi tẩu thoát qua sự quyến luyến vào cái này hay cái kia, và tôi thấy rằng chừng nào tôi còn bị cô độc, những sự việc tiếp theo sẽ luôn luôn như thế này. Cô độc có nghĩa gì? Liệu nó là bản năng, vốn có sẵn, hay liệu nó được tạo ra bởi hoạt động hàng ngày của tôi? Nếu nó là bản năng, nếu nó vốn có sẵn, nó là một phần thuộc số mạng của tôi; tôi không đáng bị khiển trách. Nhưng bởi vì tôi không chấp nhận điều này, tôi nghi ngờ nó và ở lại cùng nghi vấn. Tôi đang nhìn ngắm và không đang cố gắng tìm được một đáp án thuộc trí năng. Tôi không đang cố gắng bảo sự cô độc nó nên làm gì, hay nó là gì; tôi đang nhìn ngắm cho nó nói rõ cho tôi. Có một tỉnh táo cho sự cô độc tự-phơi bày chính nó. Nó sẽ không tự-phơi bày chính nó nếu tôi tẩu thoát; nếu tôi bị sợ hãi; nếu tôi kháng cự nó. Vì vậy tôi nhìn ngắm nó. Tôi nhìn ngắm nó đến độ không suy nghĩ nào can thiệp. Đang nhìn ngắm còn quan trọng hơn suy nghĩ đang chen vào. Và bởi vì toàn năng lượng của tôi quan tâm đến sự nhìn ngắm trạng thái cô độc đó, suy nghĩ không kịp chen vào. Cái trí đang được thách thức và nó phải trả lời. Bởi vì bị thách thức, nó là một khủng hoảng. Trong một khủng hoảng, bạn có năng lượng vô hạn, và năng lượng đó vẫn còn y nguyên mà không bị can thiệp bởi suy nghĩ. Đây là một thách thức phải được trả lời.

 Tôi bắt đầu có một đối thoại cùng chính tôi. Tôi tự hỏi chính mình, cái sự việc lạ lùng được gọi là tình yêu này là gì; mọi người nói về nó, viết về nó – tất cả những bài thơ, những bức tranh, tình dục lãng mạn, và tất cả những lãnh vực khác của nó? Tôi hỏi: ‘Liệu có một sự việc như là tình yêu?’ Tôi thấy nó không hiện diện khi có ghen tuông, căm hận, sợ hãi. Thế là tôi không quan tâm đến tình yêu nữa; tôi quan tâm đến cái gì là: sợ hãi của tôi, quyến luyến của tôi. Tại sao tôi bị quyến luyến? Tôi thấy một trong những lý do – tôi không nói nó là tất cả lý do – là rằng tôi bị cô độc, bị tách rời. Tôi càng lớn tuổi bao nhiêu, tôi càng trở nên cô lập bấy nhiêu. Vì vậy tôi nhìn ngắm nó. Đây là một thách thức phải tìm ra, và bởi vì nó là một thách thức, tất cả năng lượng hiện diện ở đó để phản ứng. Điều đó đơn giản. Nếu có một thảm họa nào đó, một tai nạn hay bất kỳ điều gì, nó là một thách thức, và tôi có năng lượng để gặp gỡ nó. Tôi không phải hỏi: ‘Làm thế nào tôi nhận được năng lượng này?’ Khi ngôi nhà đang cháy tôi có năng lượng để chạy thoát, năng lượng lạ thường. Tôi không ngồi ngả người ra và nói: ‘Ồ, tôi phải nhận được năng lượng này’ rồi sau đó chờ đợi; toàn ngôi nhà sẽ bị đốt cháy trước lúc đó rồi.

 Thế là, có năng lượng lạ thường để trả lời nghi vấn: Tại sao có trạng thái cô độc này? Tôi đã phủ nhận những ý tưởng, những giả thuyết, và những lý thuyết rằng nó là di truyền, rằng nó thuộc bản năng. Tất cả điều đó không có ý nghĩa gì đối với tôi. Tại sao lại có trạng thái cô độc này mà mỗi con người, nếu anh ấy có nhận biết, đều trải qua, một cách hời hợt hay sâu thẳm? Tại sao nó hiện diện? Liệu có phải rằng cái trí đang làm cái gì đó mà đang tạo ra nó? Tôi đã phủ nhận những lý thuyết về bản năngdi truyền, và tôi đang hỏi: Liệu cái trí, bộ não, chính nó đang tạo ra trạng thái cô lập này, toàn sự tách rời này? Liệu chuyển động của suy nghĩ đang thực hiện điều này? Liệu suy nghĩ trong sống hàng ngày của tôi đang tạo ra ý thức của tách rời này? Trong văn phòng, tôi đang tách rời chính tôi bởi vì tôi muốn trở thành người đứng đầu, vì vậy suy nghĩ luôn luôn đang làm công việc tự-tách rời chính nó. Tôi thấy rằng luôn luôn suy nghĩ đang vận hành để biến nó thành cao cấp hơn, cái trí luôn luôn đang làm việc hướng về sự cô lập này.

 Vậy thì vấn đề là: Tại sao suy nghĩ làm điều này? Liệu bản chất của suy nghĩ là làm việc vì chính nó? Giáo dục tạo ra sự cô lập này; nó trao tặng tôi một nghề nghiệp nào đó, một chuyên môn nào đó, và thế là, cô lập. Suy nghĩ, bởi vì bị phân chia, bị giới hạn, bị thời gian trói buộc, đang tạo ra sự cô lập này. Trong giới hạn đó, nó đã tìm được sự an toàn, nói, ‘Tôi có một nghề nghiệp đặc biệt trong sống của tôi; tôi là một giáo sư; tôi an toàn tuyệt đối.’ Vì vậy sự quan tâm của tôi lúc đó là: Tại sao suy nghĩ làm việc đó? Liệu trong chính bản chất của nó, nó phải thực hiện việc này? Bất kỳ việc gì suy nghĩ thực hiện phải bị giới hạn.

 Bây giờ, vấn đề là: Liệu suy nghĩ có thể nhận ra rằng bất kỳ việc gì nó thực hiện đều bị giới hạn, bị phân chiavì vậy gây tách rời, và rằng bất kỳ việc gì nó thực hiện sẽ vẫn như thế? Đây là một mấu chốt rất quan trọng: Liệu chính suy nghĩ có thể nhận ra những giới hạn riêng của nó? Hay, liệu tôi đang nói với nó rằng nó bị giới hạn? Tôi thấy, hiểu rõ mấu chốt này rất quan trọng; đây là cốt lõi thực sự của vấn đề. Nếu chính suy nghĩ nhận ra rằng nó bị giới hạn, vậy thì không có sự kháng cự, không có sự xung đột; nó nói, ‘Tôi là điều đó.’ Nhưng nếu tôi đang nói với nó rằng nó bị giới hạn, vậy thì tôi trở nên tách rời khỏi sự giới hạn; vậy thì tôi đấu tranh để khuất phục sự giới hạn. Thế là, có xung đột và bạo lực, không phải tình yêu.

 Vì vậy, liệu suy nghĩ nhận ra về chính nó rằng nó bị giới hạn? Tôi phải tìm ra. Tôi đang bị thách thức. Bởi vì tôi bị thách thức, tôi có năng lượng vô hạn. Nói cách khác: Liệu ý thức nhận ra rằng nội dung của nó là chính nó? Hay, bởi vì tôi đã nghe người nào đó nói: ‘Ý thức là nội dung của nó; nội dung của nó tạo thành ý thức’? Thế là tôi nói, ‘Vâng, đúng là như thế.’ Bạn thấy sự khác biệt giữa hai câu? Câu sau, bị tạo ra bởi tư tưởng, bị áp đặt bởi ‘cái tôi’. Nếu tôi áp đặt cái gì đó vào suy nghĩ, vậy thìxung đột. Nó giống như một chính phủ chuyên chế đang áp đặt vào người nào đó, nhưng ở đây chính phủ đó là điều gì tôi đã tạo ra.

 Vì vậy tôi đang hỏi chính mình: Liệu suy nghĩ đã nhận ra những giới hạn riêng của nó? Hay liệu nó đang giả vờ là cái gì đó lạ thường, cao cả, thiêng liêng? – mà là điều vô lý, bởi vì suy nghĩ được đặt nền tảng trên ký ức. Tôi thấy rằng phải có sự rõ ràng về mấu chốt này: rằng không có ảnh hưởng phía bên ngoài đang tác động vào suy nghĩ, đang nói nó bị giới hạn. Vậy thì, bởi vì không có sự áp đặt, không có sự xung đột; đơn giản nó chỉ nhận ra rằng nó bị giới hạn; nó nhận ra rằng bất kỳ việc gì nó thực hiện – sự tôn sùng Thượng đế của nó, và vân vân – đều bị giới hạn, tầm thường, nhỏ nhen – mặc dù nó đã dựng lên những thánh đường nguy nga khắp Châu âu để thờ phụng trong đó.

 Thế là, trong đối thoại với chính tôi của tôi đã có sự khám phá rằng cô độc bị tạo ra bởi suy nghĩ. Bây giờ, suy nghĩ đã nhận ra về chính nó rằng nó bị giới hạnvì vậy không thể giải quyết được vấn đề cô độc. Bởi vì nó không thể giải quyết được vấn đề cô độc, liệu cô độc còn hiện diện? Suy nghĩ đã tạo ra ý thức của cô độc này, trạng thái trống rỗng này, bởi vì nó bị giới hạn, phân chia, tách rời. Và khi nó nhận ra điều này, cô độc không còn; thế là, có sự tự do khỏi quyến luyến. Tôi đã không làm gì cả; tôi đã nhìn ngắm sự quyến luyến, điều gì được hàm ý trong nó – tham lam, sợ hãi, cô độc, tất cả điều đó – và bằng cách theo dõi nó, nhìn ngắm nó, không-phân tích nó, nhưng chỉ đang nhìn ngắm, đang nhìn ngắm và đang nhìn ngắm, có sự khám phá rằng suy nghĩ đã thực hiện tất cả việc này. Tư tưởng, bởi vì nó là tách rời, đã tạo ra sự quyến luyến này. Khi nó nhận ra điều này, sự quyến luyến không còn. Không có nỗ lực nào được thực hiện, bởi vì khoảnh khắc có nỗ lực, xung đột quay lại.

 Trong tình yêu không có quyến luyến; nếu có quyến luyến không có tình yêu. Đã có sự xóa sạch nhân tố chính, qua phủ nhận, về cái gì nó không là, qua sự phủ nhận quyến luyến. Tôi biết nó có nghĩa gì trong sống hàng ngày của tôi: không sự hồi tưởng của bất kỳ điều gì người vợ của tôi, người bạn gái của tôi, hay người hàng xóm của tôi đã làm để gây tổn thương cho tôi; không sự quyến luyến đến bất kỳ hình ảnh nào suy nghĩ đã tạo ra về cô ấy – cô ấy đã dọa nạt tôi như thế nào, cô ấy đã cho tôi sự thoải mái như thế nào, tôi đã hưởng thụ vui thú tình dục như thế nào – tất cả những sự việc khác nhau mà chuyển động của suy nghĩ đã tạo ra những hình ảnh, sự quyến luyến vào những hình ảnh đó đã tan biến.

 Và có những nhân tố khác – liệu tôi phải trải qua tất cả những điều đó dần dần, từng bước một? Hay tất cả nó đều không còn? Liệu tôi phải trải qua, liệu tôi phải tìm hiểu – như tôi đã tìm hiểu quyến luyến, sợ hãi, vui thú, và ham muốn có thanh thản? Tôi thấy rằng tôi không phải trải qua tất cả sự tìm hiểu về những nhân tố khác nhau này; tôi thấy nó trong lóe sáng, tôi đã nắm bắt nó.

 Vậy là, qua sự phủ nhận điều gì không là tình yêu, tình yêu hiện diện. Tôi không phải hỏi tình yêu là gì; tôi không phải theo đuổi nó. Nếu tôi theo đuổi nó, nó là một phần thưởng. Thế là, tôi đã phủ nhận, tôi đã kết thúc, trong sự tìm hiểu đó, chầm chậm, cẩn thận, mà không gây biến dạng, mà không gây ảo tưởng, mọi thứ mà nó không là – cái còn lại hiện diện.

 

 Brockwood Park, Anh

 Ngày 30 tháng 8 năm 1977

 Một đối thoại cùng Chính mình 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28215)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6698)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8799)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9336)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15412)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8273)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8696)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16755)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 27003)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18709)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15679)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22578)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19505)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18383)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16225)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25684)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12912)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37900)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20123)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10732)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10056)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10567)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10411)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11056)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15263)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10876)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19728)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11725)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10805)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11271)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10132)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10582)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11569)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10907)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11426)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12178)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11084)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 13038)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17805)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15264)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15747)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 11011)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12133)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11061)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21893)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12121)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9192)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20196)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17280)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10111)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant