Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Kinh Bốn mươi hai chương

10 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 5599)
04. Kinh Bốn mươi hai chương


THC BIN
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003

KINH BỐN MƯƠI HAI CHƯƠNG

TỰA

Trong bao nhiêu kinh sách đạo Phật, mỗi bộ là mổi kho tàng chứa pháp môn vô lượng để đối trị những căn bệnh, tham ái, tình chấp, vọng kiến của chúng sinh, với chủ ý đưa chúng sinh tiến dần đến chỗ cứu kính an vui như Phật.

Cuốn kinh nhỏ này là phương châm đầu tiên để bước dần trên đường tiến triển ấy, cũng là kinh nhựt tụng của bất cứ người nào... mặc dầu những đoạn văn nhiều khi không liền ý mạch lạc với nhau, nhưng mỗi câu chất chứa biết bao là tư tưởng cao đẹp thâm huyền. Hãy đọc lên những khi tâm hồn đen tối, cùng trong lúc trí lực an nhàn để lắng nghe lời vàng của nói năng và hành động noi theo. Hãy bình tĩnh tha thiết mà đọc lên, chúng ta cảm thấy mình cũng suy nghĩ, cũng xúc động như đấng Từ bi và bao nhiêu nỗi khổ bởi tội lỗi nhiễm ô sẽ biến mất, nhường chỗ cho an vui thanh tịnh.

Kinh này là một kinh được dịch ra Hán văn đầu tiên khi Phật giáo truyền sang Trung Hoa, và sau này người ta đã tiếp tục dịch ra nhiều thứ tiếng bằng Pháp văn, Việt văn v.v. Nay nhân dịp kỷ niệm Đản sanh của đức Thích Tôn, muốn lưu truyền Pháp bảo để báo thâm ân của đấng Từ phụ, Khuôn Tịnh độ An Lạc thuộc tỉnh Hội Phật học Thừa Thiên phát tâm xuất bản và ấn tống theo bản dịch sau. Bản dịch này do đối chiếu giữa hai bản dịch Hán, Pháp vănphương tiện sắp lại chương thức theo từng loại, chia làm năm đoạn để độc giả dễ lãnh hội ý nghĩa khi đọc.

Việc lưu truyền Pháp là một việc rất thích ứng với mục đích của hàng Phật tử chân chánh, nên tôi một lòng tán thán và có mấy dòng này để gọi là tùy hỷ công đức.

Phật đản 8-4-2513
Thích Thiện Siêu

KINH BỐN MƯƠI HAI CHƯƠNG

Khi đức Thế Tôn thành đạo rồi, liền suy nghĩ: "Xa lìa ham muốn, được cảnh tịch tịnh là hơn cả." Ngài an trụ trong đại Thiền định, hàng phục các ma vương, sau đến vườn Nai (Lộc Uyển), nói pháp Tứ đế, độ năm ông Tỷ-kheo là nhóm A-nhã Kiều-trần-như, họ đều chứng đạo quả. Có những Tỷ-kheo xin Phật chỉ bày các điều nghi, Phạt dạy cho và tất cả đều khai ngộ, chấp tay cung kính nghe lời Phật dạy:

I. CUỘC ĐỜI VÔ THƯỜNG

1. Phật dạy: Cái Ta

Tứ đại hợp lại làm thân, mỗi đại có một tên riêng, lấy cái gì gọi là cái Ta? Cái Ta không ở trong một vật sẽ chết, đã không có Ta thì thân này là vật đã đổi.

2. Phật dạy: Đời người

Phật hỏi Thầy Sa-môn:

- Đời người dài đặng bao lâu?

- Thưa Thế Tôn, chỉ trong vài ngày.

Phật dạy: - Thầy chưa thấu đạo.

Lại hỏi một Thầy Sa-môn khác:

- Đời người dài đặng bao lâu?

- Thưa Thế Tôn, chỉ bằng trong một bữa ăn.

Phật dạy: - Thầy chưa hiểu đạo

Sau hỏi một Thầy Sa-môn nữa:

- Đời người dài đặng bao lâu?

- Thưa Thế Tôn, chỉ bằng trong một hơi thở.

Phật dạy: - Hay thay! Thầy biết đạo.

3. Phật dạy: Đứt lưỡi

Say đắm tài sắccuộc đời như liếm mật dính trên lưỡi dao, chưa ngọt miệng mà đã bị đứt lưỡi; đáng thương sự khờ dại của trẻ thơ, không biết cái hoạ sẽ đến khi nếm mật lưỡi dao.

4. Phật dạy: Hư danh

Chúng sinhdục vọng mà cầu hư danh, hư danh có rồi thì thân đã già, ham hư danh đến nỗi quên học đạo, thật uổng công cũng như kẻ thắp hương, lúc mùi hương bay ra thì cây hương đã tàn: ấy là lửa cháy sau lưng.

5. Phật dạy: Vũ trụ

Xem non sông phải hiểu non sông sẽ biến đổi, ngắm vũ trụ phải hiểu vũ trụ chuyển hóa, vạn vật đều phải thay hình đổi dạng, chẳng có gì là bền; nên xem tánh linh giác ngộ tức Bồ-đề, nếu thầu đáo như thế tức thì đắc đạo sẽ hiện.

6. Phật dạy: Phật đối cảnh

Ta xem ngôi vương như bụi qua khe cửa, coi vàng ngọc như ngói gạch, coi gấm vóc như giẻ rách, coi cõi Đại thiên như trái ha-lê, coi nước hồ A-nậu như dầu để thoa chân, coi các phương tiện như núi báu đều là vật biến hóa, coi pháp Vô thượng thừa như vàng bạc trong chiêm bao. Ta xem Đạo như hoa nở trước mắt, xem Thiền định như trụ Tu-di, xem Niết-bàn như tỉnh trọn ngày đêm, xem chánh với tà như sáu con rồng múa, xem sự thịnh suy như hoa cỏ trong bốn mùa.

II. HẠNH CỦA PHẬT TỬ

7. Phật dạy: Làm lành

Chúng sinh có thể làm được mười việc lành và cũng có thể gây nên muời điều ác.

Sát hại, trộm cắp, dâm dục là ba tội do thân làm. Nói hai lưỡi, nói hung ác, nói dối trá, nói vu khống là bốn tội do miệng gây ra. Ganh ghét, giận hờn, ngu si là ba tội thuộc về ý. Thuận theo luân lý của đạo là bỏ mười ác tức đã làm mười việc lành vậy!

8. Phật dạy: Sám hối

Chúng sinh làm điều ác mà không biết ăn năn sẽ không tránh đươc tội báo, cũng như nước chảy về biển càng lâu càng sâu rộng; người nào biết sám hối các tội, nguyện làm lành lánh dữ, tội sẽ mất, ví như người bệnh được thoát mồ hôi, dần dần lành bệnh.

9. Phật dạy: Ném bụi

Người ác cố hại kẻ hiền cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước miếng, nước không thấu trời mà liền rơi xuống mặt mình, cũng như kẻ cố ném bụi ngược gió, bụi không dính ai mà trở lại dính vào thân mình

10. Phật dạy: Bóng theo hình

Có người nghe Ta hành đạo, làm việc nhân từ, cố ý đến mắng Ta. Ta yên lặng để cho kẻ kia hết lời rồi mới hỏi: "Này con, nếu con đem quà biếu kẻ khác, kẻ ấy không nhận thì con đem quà về chứ?"

Người ấy đáp: Phải

Ta mới bảo: "Nay con mắng Ta, Ta không nhận, vậy con phải nhận lấy mọi tiếng con đã thốt ra, con tự chuốc lấy cái khẩu nghiệp, như vang theo tiếng, như bóng theo hình, chúng có rời nhau bao giờ! Ta khuyên con, từ đây về sau nên cẩn thận trong lúc dùng lời nói."

11. Phật dạy: Bình tĩnh

Kẻ ác đến chọc người lành, người lành bình tĩnh không nỗi giận, tức nhiên kẻ ác mang lấy điều tàn ác.

12. Phật dạy: Giới luật

Phật tử tuy ở xa Ta nghìn dặm mà cố giữ luật của Ta, quyết sẽ đắc đạo; ở bên cạnh Ta, tuy thường thấy Ta mà phạm giới, người ấy chẳng bao giờ thành đạo cả.

13. Phật dạy: Phải tin Phật

Phật tử phải tin lời nói của Ta, lời nói của Ta như mật ong, trong và ngoài đều ngon ngọt và hiền lành.

14. Phật dạy: Rèn sắt

Hãy xem người thợ rèn dùng sắt, bao nhiêu gang bẩn và rét của sắt đều cạo đi rồi mới rèn đồ dùng tốt; người học đạo cũng phải bỏ tất cả thói xấu của mình mới có thể trong sạch được.

15. Phật dạy: Tám điều khó

Lìa đường ác để sanh làm người: rất khó; làm người mà được thân đàn ông: rất khó; đàn ông mà căn thân đầy đủ: rất khó; thân và tâm tốt lại ở trong Phật địa: rất khó; ở xứ Phật mà gặp Phật còn sống: rất khó; gặp mà hiểu đạo: rất khó; biết đạo mà sanh lòng tin Phật: rất khó; có lòng tin Phật mà phát tâm Bồ-đề: rất khó; phát tâm Bồ-đề mà tu đến cảnh "vô tu, vô chứng" càng khó hơn vậy!

III. PHẬT TỬ PHẢI XA NỮ SẮC

16. Phật dạy: Chỉ có một

Nữ sắc làm cho người ta say mê và lưu luyến nó, chỉ có nữ sắc là mạnh hơn cả, may thay chỉ có thứ nữ sắc là nguy hại chứ không có hai, cho nên trong thiên hạ mới còn có người đi học đạo.

17. Phật dạy: Bó đuốc

Người mê nữ sắc như cầm đuốc mà đi ngược gió, nhất định phải bị cháy tay.

18. Phật dạy: Áo cỏ khô

Người học đạo nên tránh xa tình dục, ví như kẻ mặc bằng cỏ khô, phải cố xa lửa mới an thân.

19. Phật dạy: Lo sợ

Người ta vì lòng ham muốn mà bị khổ, khổ quá rồi đem lòng sợ; nếu không ham muốn, sự lo sợ sẽ mất.

20. Phật dạy: Lao tù

Người bị ràng buộc cảnh vợ con, giàu sang, còn khổ hơn kẻ ở lao tù, vì kẻ ở tù lao còn có ngày được thả, chứ cảnh vợ con, giàu sang không thể rời được. Kẻ phàm phu cam tâm chịu vọng, vướng cảnh tầm thường như vấy bùn, như mở miệng cọp mà không biết sợ. "La-hán thoát trần" là người vượt qua khỏi cảnh này.

21. Phật dạy: Phụ nữ

Hãy cẩn thận chớ ngắm nữ sắc, đừng nói chưyện với đàn bà. Nếu buộc lòng phải tiếp chuyện hãy chính tự tâm nghĩ: Ta là Sa môntrong đời xấu xa, phải như hoa sen mọc trong bùn. Rồi coi đàn bà già như mẹ ta, đàn bà lớn tuổi như chị ta, thiếu nữ như em gái mình, đứa gái nhỏ như con ta, chớ nên nghĩ bậy, cố gắng để đạt được giải thoát cho mình và để cứu khổ cho họ.

22. Phật dạy: Khúc gỗ trôi sông

Người học đạo như khúc gỗ trôi sông, không tấp vào bờ, không bị nước xoáy, không bị mục nát, không bị người cướp đoạt, không bị ai uy hiếp, ta bảo khúc gỗ sẽ trôi đến biển.

Người học đạo không bị tình dục mê hoặc, không bị đời xoay chiều, tinh tấn trên đường đạo, Ta bảo kẻ ấy thành đạo.

23. Phật dạy: Cái đãy da

Thiên thần sai ngọc nữ đến lung lạc Ta, Ta bảo "Này cái đãy da chứa đầy đồ nhơ bẩn, đến đây làm gì, ta có dùng đâu, hãy tránh xa và đi đi." Thiên thần sanh lòng kính Ta, rồi thỉnh Ta nói đạo. Ta dạy dỗ cho, sau chứng được Tu-đà-hoàn quả.

24. Phật dạy: Ý của ngươi

Hãy cẩn thận chớ vội tin ý của ngươi, ý của ngươi không thể tin được. Vậy chớ đắm theo sắc dục, sa vào đó tai hoạ ắt sẽ đến; muốn tin ý của ngươi hãy cố gắng đắc quả A-la-hán.

25. Phật dạy: Đoạn tâm

Có người sợ tính dâm dục khó trừ, muốn đoạn âm. Phật dạy: Đoạn âm sao bằng đoạn Tâm, tâm ví như chủ nhà, chủ không cho phép làm, đầy tớ tất phải nghỉ việc. Coi như thế lòng chưa sạch, trí chưa trong, đoạn âm có ích gì?

Phật giảng bài kệ của cổ Phật Ca-diếp: "Ái dục sanh từ nơi ý, do ý có tư tưởng; nếu ý và tư tưởng đều vắng lặng, lòng ái dục tự nhiên mất."

26. Phật dạy: Nước xao động

Người ta vì ham muốn nên không thấy đạo, ví như nước xao động luôn thì làm sao soi thấy bóng người, chúng sinhlòng ham muốn phá rối, tâm trở nên vẩn đục, nên không thấy được đạo của Như lai. Này các Sa-môn, hãy nhổ cho tận gốc lòng tham thì các Thầy sẽ thấy đạo.

27. Phật dạy: Bò chở nặng

Người học đạo như con bò chở nặng đi qua bùn lầy, nhọc quá không còn để ý đến hai bên vệ đường, khỏi đám bùn rồi mới dám nghỉ chân.

Các Sa-môn nên coi tình dục còn nguy hiểm hơn đi trên bùn lầy, học đạo các Thầy chỉ nghĩ đến đạo mới thoát vòng khổ não.

28. Phật dạy: Hai mươi điều khó

Người ta có hai mươi điều khó làm:

Cấm ngăn được lòng dục là khó,
Thấy tốt không mong cầu là khó,
Bị chê bai không giận là khó
uy quyền mà không ỷ là khó
Gặp việc mà vô tâm là khó,
Dẹp trừ tâm ngã mạn là khó,
Không khinh người không có học là khó,
Không nói lời thị phi là khó,
Gặp cảnh mà tâm không động là khó,
Gặp việc mà phải hy sinh đến tính mạng là khó,
Học rộng tầm sâu là khó,
Nghèo mà bố thí được là khó,
Giàu sang mà ham học đạo là khó,
Gặp được thiện tri thức là khó,
Hiểu được thiện tri thức là khó,
Được nghe Phật pháp là khó,
Được sinh thời có Phật ra đời là khó,
Tùy theo người để hóa độ là khó,
Giữ tâm bình đẳng là khó,
Thấy đặng chơn tánh mà học đạo là khó.

IV. PHẬT TỬ NÊN HIỂU ĐẠO

29. Phật dạy: Hành đạo

Học rộng mến đạo, nhưng khó lòng hiểu đạo; bền chí tu hành mới cảm thấy đạo bao la vô cùng.

30. Phật dạy: Ánh sáng

Người thấy đạo cũng như cầm đuốc vào nhà tối, bóng tối liền mất mà chỉ còn có ánh sáng; người học đạo thấy được chân lý thời vô minh mất, ánh sáng chân lý sẽ chiếu mãi mãi.

31. Phật dạy: Chân thiện

Có thầy Sa-môn bạch Phật: "Như thế nào gọi là thiện? Thế nào gọi là vĩ đại?" Phật dạy: "Hành đạo đúng chân lý là thiện, chí lớn hòa hợp cùng đạo là vĩ đại."

32. Phật dạy: Chí đạo

Có Thầy Sa-môn bạch Phật: "Do nhân duyên gì mà biết được kiếp trước, lãnh hội gì mà được chí đạo?" Phật dạy: "Giữ tâm thanh tịnh, giữ chí vững bền thì sẽ lãnh hội chí đạo, giống như lau gương hết bụi ánh sáng sẽ hiện ra."

Trừ bỏ tình dục, rửa sạch lòng tham, trí sẽ nhớ lại kiếp trước.

33. Phật dạy: Bố thí

Gặp người bố thí mà biết khuyết khích họ tu hành thời phúc đức lớn. Một Sa-môn bạch Phật: Phúc đức lớn có ngày hết chăng? Phật dạy: "Chỉ có một bó đuốc mà trăm ngàn người đến lấy lửa để dùng được mọi việc, nào nấu cơm, nào thắp đèn, mà bó đuốc vẫn sáng có mất đâu? Phúc đức của kẻ khuyết khích người ta tu hành và làm việc bố thí cũng như vậy."

34. Phật dạy: Cúng dường

Cho cơm một trăm kẻ ác, không bằng cho cơm một người lành.

Cho cơm một nghìn người lành, không bằng cho cơm một người giữ ngũ giới.

Cho cơm một vạn người giữ ngũ giới không bằng cúng dường cơm một vị Tu-đa-hoàn.

Cúng dường cơm cho một muôn Tu-đà-hoàn, không bằng cúng dường cơm cho một vị A-na-hàm.

Cúng dường cơm cho một triệu A-na-hàm, không bằng cúng dường cơm cho một bậc A-la-hán.

Cúng dường cơm cho một triệu A-la-hán, không bằng cúng dường cơm cho một đức Bích-chi Phật.

Cúng dường cơm cho trăm triệu Bích-chi Phật, không bằng cúng dường cơm cho một đức Phật trong ba đời.

Cúng dường cơm cho một đức Phật trong ba đời, không bằng sự cúng dường với tâm không còn niệm cúng dường, trí không trú vào việc cúng dường, đó là sự cúng dường cao hơn cả.

35. Phật dạy: Dũng mãnhsáng suốt

Có thầy Sa môn bạch Phật: "Như thế nào là dũng mãnh? Như thế nào là sáng suốt?"

Phật dạy: - Nhẫn nhụcdũng mãnh, vì không nghĩ ác nên tâm an ổn, thân càng tráng kiện. Nhẩn nhục được mọi người tôn trọng, vì kẻ ấy không có lòng ác. Thân và tâm đều gột sạch thói xấu, không còn vướng chi cả, như thế gọi là sáng suốt. Từ xưa đến nay trong mười phương chẳng có gì là không thấy, chẳng có gì là không biết, chẳng có gì là không nghe, ấy mới đáng gọi là sáng suốt, ấy là chứng được "Nhất thiết trí" (trí hiểu biết khắp cả).

36. Phật dạy: Pháp cứu cánh

Pháp của Ta là: Nghĩ không phải nghĩ mới gọi là nghĩ; làm không phải làm mới gọi là làm; nói không phải nói mới gọi là nói; tu không phải tu mới gọi là tu; nếu biết được lẽ ấy thời rất gần với đạo, không hiểu được lẽ ấy thời xa đạo.

Pháp của Ta không dùng lời mà chỉ được, nên không bị vật gì câu thúc cả, hễ sai một ly là xa vạn dặm, trễ một phút là trải muôn đời.

V. HẠNH SA-MÔN

37. Phật dạy: Con trâu kéo cối xay

Thầy Sa môn hành đạo đừng như con trâu kéo cối xay; thân tuy làm việc đạo mà tâm không tu hành; tâm không tu, thân cố làm có ích gì?

38. Phật dạy: Chiến trường

Người tu hành cũng giống như người ra chiến trường, sau khi mặc áo giáp ra trận, có thể vì hèn nhát mà bỏ trốn đi, có thể chết tại chiến địa, có thể thắng trận trở về rất vinh quang.

Kẻ Sa-môn học đạo hãy cố gắng bền tâm, hăng hái chống với hoàn cảnh xấu xa, mới mong thành đạo được.

39. Phật dạy: Dây đàn

Có vị Sa-môn ban đêm tụng kinh tiếng nghe rất bi ai dường như muốn sanh lòng chán sự tu hành. Phật hiểu ý mới gọi đến hỏi: "Khi Thầy còn ở nhà làm nghề gì?"

- Bạch Phật con học đàn.

Phật dạy: Dây đàn chùng thì sao?

- Bạch Phật, khảy không thành tiếng.

Phật dạy: Dây đàn căng thì thế nào?

- Bạch phật, tiếng đàn rất khó nghe.

Phật dạy: Dây đàn đúng cung thì thế nào?

- Bạch Phật, âm thanh hòa đối, tiếng đàn reo lên cùng khắp đều nghe.

Phật dạy: Sa-môn học đạo cũng như gảy đàn, hãy giữ tâm cho quân bình, điều hòa thân thể; nếu hành đạo quá sức thân thể sẽ mệt nhọc, thân thể mệt nhọc thì trí sẽ rối loạn, trí rối loạn thì sự tu hành sẽ trễ nải; học đạo trễ nải thì thói xấu tất phải nhiễm, làm sao thấy đạo của Như lai? Con hãy tập tánh an vui, cố làm việc trong sạch, chắc sẽ thấy đạo rất chóng.

40. Phật dạy: Sa-môn

Xuống tóc bỏ râu làm Sa-môn học đạo, ruồng bỏ giàu sang để khất thực vừa đủ ăn buổi ngọ, đêm ngủ gốc cây, nay đây mai đó, không còn lưu luyến cảnh cũ vì sự lưu luyến làm cho người ta hóa ra si mê, ngu tối.

41. Phật dạy: Đạo

Xuất gia làm Sa-môn, bỏ lòng ham muốn, rõ gốc tự tâm, hiểu lý cao siêu của đạo, biết pháp vô vi, trong không cố chấp, ngoài không mong cầu, tâm đã an vui không bị ràng buộc vào đạo, cũng không gây thêm nghiệp, không còn mống ý gì, chẳng còn nói phải tu, chẳng còn nói phải chứng, không cầu trải qua các bậc mà tự nhiên được tôn trọng; ấy là đạo.

42. Phật dạy: Bốn bậc Thánh

Từ biệt cha mẹ bà con, xuất gia, học đạo, thấy tự tâm, biết bổn tánh, hiểu pháp vô vi, làm Sa-môn giữ 250 giới, đi đứng thanh tịnh, thật hành pháp Tứ đế, sẽ đắc các quả:

A-la-hán là bậc có thần thông có thể biến hóa, bay trên hư không, sống lâu và có thể làm cho trời đất rung động.

A-na-hàm là bậc giác ngộ, sau khi bỏ xác, sanh lên tầng trời thứ mười chín, sẽ đắc quả A-la-hán và không còn xuống cõi trần nữa.

Tu-đà-hàm là bậc giác ngộ, sau khi bỏ xác, sanh cõi trời nhưng phải một kiếp làm người tu rồi mới đến quả A-la-hán.

Tư-đà-hoàn là bậc giác ngộ song phải tu bảy kiếp nữa mới đến quả A-la-hán.

Những người đã dứt hết mọi dục vọng như tứ chi bị chặt không còn dùng lại được nữa.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10190)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11247)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13585)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13731)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22199)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21859)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27366)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17771)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11733)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12326)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25246)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23270)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28570)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22760)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25690)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22288)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 13987)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13429)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22464)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26364)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18466)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18960)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34499)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27371)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28405)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21366)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14887)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19196)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10615)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18564)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15660)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13176)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13416)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14021)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11787)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11627)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11336)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11887)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19940)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12391)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13939)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13270)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31955)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13430)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12749)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13327)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11890)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21857)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11088)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12897)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant