Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

06. Đại ý kinh Dược sư

10 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 5823)
06. Đại ý kinh Dược sư


THC BIN
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003

ĐẠI Ý KINH DƯỢC SƯ

 

Đức Từ phụ Thích-ca Mâu-ni của chúng ta xuất hiện giữa thế giới Ta bà ác trược này, hóa thân tu hành chánh đạo chứng quả Bồ-đề, kiến lập đạo tràng thanh tịnh, nói vô lượng pháp môn chánh đáng, bản hoài của Ngài là để cứu độ chúng sinh thoát vòng sanh, lão, bệnh, tử. Chẳng những Thích-ca như vậy, mà đức Phật A-di-đà hiện thân vào thế giới Tây gây dựng pháp tràng, nói pháp độ chúng sinhđức Phật Dược Sư cũng hiện thânthế giới Tịnh lưu ly phương Đông nói pháp độ chúng sinh, thoát vòng khổ não, an hưởng cảnh tịnh độ trong đời sau.

Nhưng xét đến chúng ta và các chúng sinh nhiều kiếp nhẫn lại đây chịu khổ luân hồi chỉ vì sanh tử: vì sanh tử mà làm chúng sinh, vì sanh tử mà đời trước làm trời nay trở lại làm người, nay hiện làm người mà sau lại làm trời, cho đến làm chúng sinh, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cho nên chúng sinh ba cõi rất lo sợ về sanh tử và cho sanh tử là một sự việc lớn lao khó giải quyết nhất. Chỉ có đức Phật thoát khỏi ngoài vòng sanh tử mới biết cách giải quyết được mà thôi.

mục đích giúp cho chúng sinh giải quyết sanh tử, nên trong thời giáo của đức Thích-ca, Ngài đều tùy căn cơ của chúng sinh nói nhiều pháp khác nhau và pháp ấy được chia làm nhiều hạng loại. Ngài vì hàng Nhân thừa mà nói ngũ giới, thập thiện để đối trị tội ngũ nghịch, thập ác. Vì chư Thiên mà nói bốn Thiền, tám định, đối trị bệnh tán loạn. Vì hàng Thanh văn, Duyên giác mà nói Tứ đế, Thập nhị nhân duyên để dứt trừ tham, sân, si, giải thoát sanh tử. Vì các hàng Bồ-tát dạy tu lục độ, vạn hạnh để dứt trừ vô minh hoặccứu độ chúng sinh... Đó là giáo pháp Phật dạy nhưng phải tự tu, tự chứng, bởi vì chúng sinh khởi niệm điên đảo gây ra nhiều đều tội lỗi, bề trong đầy nghiệp chướng tham sân, kiêu mạn, bề ngoài bị nhiều tai nạn: đau ốm, đói rách, hình phạt điên cuồng. Khi sống mà tội lỗi tai ương như vậy, đến khi gần chết bao nhiêu tư tưởng xấu đều phát khởi, cảnh giới khổ đau hiện bà, khó ăn năn kịp. Cho nên, những người muốn luôn được hưởng cảnh an lành thì một là phải tự lực tạo nhơn lành, hai là nhờ lực hộ trì mới đặng.

tha lực ấy là thật.

Lâu nay phần nhiều chuyên lo về việc tiếp dẫn vãng sanh trong lúc lâm chung, nên thường tụng kinh Di-đà, niệm hiệu A-di-đà và công việc gì làm xong cũng cầu nguyện khi lâm chung nhờ Phật tiếp dẫn về cõi Cực lạc phương Tây.

Còn trong lúc sống thì chúng ta thường bị ngoại duyên làm não hại, không thể không nhờ Phật hộ niệm mà đặng an lành, nên xin nhắc lại đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai là một đức Phật phát nguyện cứu độ chúng sanh trong khi các chúng sinh ấy còn sống mà gặp các tai nạn. Nói đến đức Dược Sư tức là lược nói kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai bổn nguyện công đức vậy.

Kinh Dược Sư này là một phương pháp ứng dụng hiện thời cho hết thảy chúng sinh ở cõi Ta-bà này, không luận hạng người nào, ai cũng muốn sống lâu và muốn khỏi tai nạn để vui vầy ăn ở, thì cần phải nhờ oai tạo tâm lành, vượt vòng ác kiến ma đạotránh khỏi các tai nạn.

Kinh này là phương pháp tạo thành cảnh Tịnh độ. Các đức Phật đều phát tâm rộng lớn tu hành cầu chứng Phật quả, phát nguyện rộng lớn cứu độ chúng sinh, mà cảm thành thế giới anlạc như đức Dược Sư nói trong kinh này. Nếu chúng ta tu hànhphát nguyện độ sanh như Ngài, một người tu như vậy, cho đến nhiều người cũng tu hành phát nguyện như Ngài thì chắc chắn hiện tiền trong thế giới của chúng ta đang sống bớt tai nạn binh đao, thậm chí không còn móng khởi tâm độc ác giết hại lẫn nhau, không những ít người chết yểu mà còn sống lành mạnh, bớt bịnh tật, cho đến sống lâu vô lượng, không còn nghe tiếng rên rỉ, than van của kẻ nghèo khổ, tật nguyền v.v. tức là thiết lập thế giới Cực lạc ở tại cõi đời này vậy.

Do đó, đức Phật Thích-ca mới nói kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai bổn nguyện công đức này. Thuộc đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang dịch từ Phạn ra Hoa văn, xin tóm tắt như sau:

Kinh Văn chia ra làm ba phần:

Phần duyên khởi
Phần chánh tông.
Phần lưu thông.

A. Phần duyên khởi

Một khi Phật với các đồ chúng: Tám ngàn vị Tỷ-kheo, Ba mươi sáu ngàn vị đại Bồ-tát cùng các vị quốc vương, cư sĩ, trời, người, ở trong thành Quảng Nghiêm. Phật theo lời thưa thỉnh của Mạn-thủ-thất-lợi (Văn-thù Bồ-tát) mà nói kinh này.

B. Phần chánh tông

Đoạn thứ nhất Ngài Mạn-thù-thất-lợi dùng sức đại trí cầu chứng Phật đạothỉnh Phật nói kinh này. Như trong kinh nói:

- Thưa Thế Tôn! Xin nguyện vì chúng con mà diễn nói chủng loại danh hiệu và bổn nguyện công đức thù thắng của đức Phật.

Đoạn thứ hai Ngài Mạn-thù-thất-lợi phát tâm đại bi giúp ích cho vô lượng chúng sinh mà thỉnh nói kinh này, vì thế nên Phật khen: "Hay thay, hay thay! Mạn-thù-thất-lợi. Ông vì lòng đại bi dứt trừ nghiệp chướng trói buộc cho chúng sinh và làm lợi ích an vui cho các loài hữu tình trong các đời tượng pháp sau này mà khuyến thỉnh Như lai diễn nói danh hiệu và bổn nguyện công đức chư Phật".

Nhơn bổn ý của Mạn-thù-thất-lợi thưa thỉnh lên, Phật mới vì ngài Mạn- thù và vì ích lợi chúng sinh đời sau mà nói rõ quốc độ, bổn nguyện công đức của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như lai.

Phương Đông cách đây mưòi hằng sa cõi Phậtthế giới gọi là Tịnh lưu ly rất trang nghiêm tốt đẹp; cung điện báu, bảy lớp hàng cây, ao sen báu, nước tám công đức v.v. đều do bảy món báu tạo thành, thường thường tiếng nước chảy, tiếng chim kêu, tiếng cây rung, gió thổi đều diễn bày các phép tu hành và cõi ấy không có đàn bà con gái, không có tên ác đạo hoặc người thọ khổ. Tóm lại cõi ấy đều đủ các thứ công đức trang nghiêm, không khác cõi Cực lạc A-di-đà, nên Phật nói: "Cũng như thế giới Cực lạc phương Tây đủ công đức trang nghiêm không sai khác".

Lại nữa, trong cõi Tịnh lưu ly có hai vị Bồ-tát lớn: Nhật QuangBiến Chiếu thường giúp đức Dược Sư trong lúc Ngài tu tập theo hạnh Bồ- tát đã phát 12 lời nguyện mà được cảm thành:

1. Nguyện khi Ta thành đạo Bồ-đề, thân đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, hào quang sáng khắp vô lượng thế giới, khiến các chúng sinh cũng được như Ta.

2. Nguyện khi Ta thành Phật, trong ngoài sáng chói hơn ánh sáng mặt trời, tự tại làm Phật, khiến các chúng sinhchỗ tối tăm đều nhờ ơn khai thị.

3. Nguyện khi Ta thành Phật, đầy đủ vô lượng phương tiện trí tuệ, làm cho chúng sinh đầy đủ các món thọ dụng nơi thân tâm.

4. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu các chúng sinh tu theo tà đạo đều xoay về chánh đạo, hàng Nhị thừa thì đều hướng về Nhất thừa.

5. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu có chúng sinh theo giáp pháp của Ta mà tu hành, thì đều được hoàn hảo, dù có phạm giới mà nghe đến tên Ta thì cũng trở thành thanh tịnh giới khỏi phải sa vào ác đạo.

6. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu chúng sinh nào có thân thể hèn yếu hay xấu sa, đui điếc hay câm ngọng, một phen nghe tên Ta, niệm tên Ta thì được khỏi bệnh, lại được tốt đẹp khôn ngoan

7. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu có chúng sinh không bà con thân thuộc, nghèo thiếu ốm đau, không ai giúp đỡ, mà nghe được tên Ta thì thân tâm yên lành quyến thuộc giúp đỡ cho, đến chứng đạo Bồ-đề.

8. Nguyện khi Ta thành Phật, các nữ nhân thường bị khinh dể thấp kém, nếu nghe được tên Ta thì bỏ thân nữ nhân, thành tướng trượng phu cho đến chứng quả.

9. Nguyện khi Ta thành Phật, thì các chúng sinh thoát vòng ma đạo ác kiến, về nơi chánh đạo, tu Bồ-tát hạnh mau chứng đạo Bồ-đề.

10. Nguyện khi Ta thành Phật, nếu chúng sinh bị pháp vua trừng trị, trói buộc đánh đập, giam vào ngục tối, cắt xẻ v.v. mà nghe tên Ta thì đều thoát khỏi.

11. Nguyện khi Ta thành Phật, những chúng sinh bị đói khát, cầu ăn mà tạo nghiệp dữ, nếu nghe tên Ta, chuyên niệm thọ trì, thì Ta trước hết cấp cho món ăn được no đủ, sau nói pháp khiến họ tu hành được hoàn toàn an vui.

12. Nguyện khi Ta thành Phật, những chúng sinh nghèo không có áo mặc, muỗi mòng chích đốt, nóng lạnh, ngày đêm khổ sở, nếu nghe tên Ta chuyên niệm thọ trì, thì Ta theo tâm mong cầu ấy khiến được đầy đủ y phục hoa hương.

Đó là lược kể 12 bổn nguyện của đức Dược Sư, nhưng còn bao nhiêu công đức tu hành của Ngài thì không thể nói hết. Nên Phật nói: "Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai trong khi tu Bồ-tát hạnh phát đại nguyệncông đức trang nghiêm của cõi Phật kia. Như lai dẫu hơn một kiếp cũng không thể nói cùng được".

nguyện lực như vậy, công đức tu hành như vậy, nên hễ chúng sinh ngu si, không tin việc thiện ác nhân quả tầm thường xen lẩn. Không bố thí cho ai, nếu có bố thí cho ai, nếu có bố thí chút ít thì tâm thầm tiếc khổ sở như dao cắt xẻ thân... nhưng đã từng nghe danh hiệu đức Dược Sư thì dầu ở trong đuờng khổ cũng như ở sanh cõi ngườitu hành bố thí, dầu bỏ thân mạng cũng không thương tiếc.

Hoặc có người phá giới luật, oai nghi, tâm kiêu mạn, bài bác Chánh pháp sẽ bị đoạ trong ba đường dữ, nếu nghe tên đức Phật Dược Sư tức thì bỏ các hạnh xấu ác mà tu theo chánh pháp, cho đến chúng sinh muốn sanh cõi trời, sanh làm chuyển luân thánh vương để đem thập thiện dạy đời, muốn tiêu trừ bệnh tật, thọ mạng lâu dài, nếu nghe danh hiệu đức Duợc Sư, chuyên tâm trì niệm kinh chú hoặc tạo tượng Dược Sư, dâng cúng hoa hương tươi tốt tịnh tâm trì tụng kinh chú, đốt 49 ngọn đèn, hoặc để tâm chú nguyện vào trong vật uống ăn của người bệnh, tụng chú Dược Sư Quán đảnh chơn ngôn 108 lần để cho họ dùng, nhất là 49 ngày ấy phải nhất tâm thọ trì 8 điều giới trai, thân thường sạch sẽ, tâm thường vui vẻ, đối với các loài chúng sinh, khởi tâm từ giúp đỡ, khởi tâm bi cứu vớt, khởi tâm bình đẳng bố thí cho các loài hữu tình, không làm tổn hại bất cứ chúng sinh nào và không khi nào giận hờn... được như vậy trong tâm tự mình đã xoay đổi được tâm tàn ác độc hại, thì bao nhiêu tai chướng, những cảnh khốn khổ đều theo tâm ấy mà chuyển thành cảnh giới toàn thiện, toàn mỹ, hằng ngày lại được các vị thiên Thần ủng hộ và nhờ oai thần nguyện lực của đức Dược Sư mà cầu lành bệnh, cầu sống lâu đều được thoả nguyện.

Vì rằng đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai đã trải qua nhiều kiếp phát đại nguyện độ sanh, tu Bồ-tát hạnh, trong thời gian lâu xa ấy, Ngài dứt sạch những nghiệp chướng, báo chướngphiền não chướng, là một vị Pháp vương, không bị bất cứ một điều gì làm nao núng, những hạnh nguyện độ sanh luôn luôn cảm ứng với chúng sinh, nên tùy ý sanh vào những cảnh khổ, tối tăm làm một vị Luơng y dùng các phương tiện cứu giúp chúng sinh thoát vòng thân bệnh, nói pháp mẫu để cứu chúng sinh ra khỏi vòng tâm bệnh... Do vậy, tùy theo hết thảy chúng sinh phát tâm nguyện cầsu mà nguyện lực của Phật vẫn cảm ứng trùm khắp tất cả.

C. Phần lưu thông

Khi Phật nói kinh này rồi cả thính chúng, Bồ-tát, Tỷ-kheo đều vui mừng và vâng giữ.

Chú Dược Sư quán đảnh chơn ngôn:

Nam mô, Bạt già phạt đế, bệ xát xã lũ rô-bệ lưu ly bát lạc bà - hát ra xà dã, đát tha yết đa dã - a ra hất đết, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha. Án, bệ sát thệ, bệt sát thệ, bệ sát xã - tam một yết đế, ta ha.

Nam-mô Dược Sư hội thượng Phật Bồ-tát.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10198)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11255)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13592)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13745)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22219)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21877)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27390)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17784)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11741)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12331)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25250)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23293)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28586)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22773)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25720)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22309)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14002)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13438)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22482)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26397)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18488)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18967)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34518)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27390)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28431)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21397)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14910)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19220)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10622)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18578)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15666)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13197)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13423)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14028)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11795)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11634)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11345)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11898)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19947)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12400)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13943)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13275)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31989)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13444)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12759)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13337)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11905)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21873)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11098)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12906)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant