Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

15. Khuyến tu

10 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 5649)
15. Khuyến tu


THC BIN
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003

KHUYẾN TU

(Bài nói chuyện với Tăng Ni, nhân mùa khai giảng Học viện Phật giáo Việt Nam
tại Huế, khóa I, niên học 1997-2001)

Trong đời này, đã là người đi học thì ai cũng muốn học giỏi. Vậy muốn học giỏi phải làm thế nào? Theo tôi nghĩ:

1. Phải có tâm cầu học

Chúng ta phải thật sự có tâm cầu học, phải thành thật có tâm cầu học. Vì thường chúng ta hay nghĩ: Học để khỏi thua người khác. Đó chỉ là cái ý so sánh để khích lệ chúng ta học tập mà thôi. Cái chính là chúng ta phải ý thức chúng ta là một người xuất gia học Phật, theo một đấng Giáo chủ với một đạo lý thâm huyền, chúng ta phải có bổn phận tu đạo, hành đạohóa đạo. Nếu chúng ta không biết gì về giáo lý của Phật cả thì tự chúng ta tu cũng không thành và chắc chắn không ai hóa độ ai được cả.

Khi chúng ta nói học để khỏi thua người khác thì giả sử khi không sợ thua người khác thì chúng ta không học hay sao? Cho nên, học để khỏi thua người khác chỉ là một lý do chúng ta tự đặt ra để khuyến khích chúng ta thôi, không phải là lý do chính. Lý do chính là tâm thành thật cầu học đạo. Bởi vì như chúng ta biết, đạo lý của Phật phải có duyên lành mới gặp được. Đạo Phật là đạo giải thoát, đức Phậtđấng Giác ngộ thì giáo lý của Phật là kho tàng đạo lý giác ngộ. Nếu chúng ta không học thì làm sao chúng ta biết được đạo lý ấy? Nhiều khi vô tình chúng ta nói: Đạo Phật cao siêu lắm. Nhưng nếu có người hỏi Đạo Phật cao siêu ở chỗ nào, thì chúng ta không làm sao đáp được. Đó là một khuyết điểm lớn đáng buồn.

Các anh em cũng thấy rõ trong hàng Tăng ni chúng ta bây giờ có một số thường mắc phải cái bệnh lý luận: Bàn những việc khác của thế gian thì lý luận rất rạch ròi, nhưng khi đi vào giáo lý, giáo pháp của Phật thì lúng túng, lập luận không vững vàng, cụ thể.

Bây giờ muốn tránh cái bệnh ấy, chúng ta phải cố tâm cầu học thật sự. Cầu học thật sự để hiểu rõ giáo ý của Phật, hiểu rõ con đường tu hành để có khả năng giáo hóa người khác một cách đúng đắn, chứ không phải chắp vá, lấy nơi này một câu, lấy nơi khác một câu làm kiến thức của mình. Nhiều khi chúng ta đem một câu của ngoại đạo mà cho là của đạo mình. Hiện tại có nhiều sách của ngoại đạo viết, họ dùng giáo lý của đạo chúng ta để tô bồi, ca ngợi chủ trương giáo lý của họ, hoặc là để chê bai, chỉ trích chúng ta. Nếu chúng ta không học thì khi đọc những sách ấy, chúng ta vội cho đấy là lời Phật nói. Tất cả những lời họ nói, chúng ta đều cho là lời Phật nói, cho là đúng rồi tin theo. Trước đây có nhiều người cũng dịch kinh Kim-cang, viết về Bồ-tát hạnh mà kỳ thật là người đâu đâu viết, người ngoại đạo viết chứ không phải người của Phật giáo. Họ viết như vậy để làm gì? Họ nêu những danh từ Phật giáo để hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, để làm cho người ta tưởng lầm là sách đạo Phật nên đua nhau đọc, nhưng thật chất không có gì là đạo Phật cả. Nếu chúng ta không học, chúng ta cũng tưởng là sách Phật, rồi chúng ta truyền bá cho tín đồ, khuyên họ nên mua cuốn sách ấy mà đọc. Như vậy, vô tình chúng ta truyền bá cái tà đạo, trưyền bá cái tà kiếnchúng ta không biết, đó mới thật đúng là "ăn cơm Phật, đốt râu thầy chùa". Thành thử chúng ta thấy tâm cầu học là một điều hết sức cần thiết: cần thiết cho mình, cần thiết cho đạo, cần thiết cho sự nghiệp hành đạohóa đạo.

Lại nữa, chúng ta học vì sợ thua người khác thì khi không sợ thua người khác chúng ta không học hay sao? Thí dụ trong lớp có một người học rất giỏi, mình luôn cố gắng học để khỏi thua người ấy. Bỗng nhiên người ấy bỏ học. Bây giờ đến lớp, mình không sợ thua ai nữa, nên không cần học nữa. Cho nên, cái tâm niệm học để khỏi thua người khác có cái tai hại như thế. Thành thử muốn học giởi thì phải có tâm cầu học. Chính cái tâm ấy là tâm thiết tha mong cầu đạo giải thoát của người xuất gia. Chính cái chánh nhân ấy thúc đẩy, khích lệ chúng ta học giỏi để phục vụ đạo pháp.

2. Phải chăm chỉ chuyên cần

Có tâm cầu học rồi nhưng nếu không chăm chỉ, chuyên cần thì chúng ta cũng không giỏi được. Đi học không chuyên cần, đến lớp không chăm chú nghe giảng bài, không ghi chép, về nhà không xem kỹ lại bài học, không làm bài tập thì không sao giỏi được. Chăm chỉ, chuyên cần thật sự rất cần thiết đối với chúng ta.

3. Phải có tâm tu, phải có đức tu

Nghĩa là phải biết chịu thương chịu khó, chịu khổ chịu cực, mới học được. Chúng ta nói "Tu Học" chứ không nói "Học Tu", nên Tu là chính, Học là để biết đường Tu. Chúng ta nói Tu Học cũng như đạo Nho nói "tiên học lễ, hậu học văn". Lễ là quan trọng, Văn là thứ yếu. Cũng vậy, các anh em bây giờ cần Tu mới tới đây Học, không Tu anh em tới đây để làm gì? Tu và Học gắn liền với nhau. Như vậy, nên trong thời gian học ở đây, anh em phải tu mới học được; nghĩa là phải chịu thương chịu khó, chịu khổ chịu cực để mà học.

Hoàn cảnh ăn, ở, học của anh em bây giờ đầy đủ tiện nghi hơn chúng tôi ngày trước kia rất nhiều lắm. Bây giờ tôi kể ra đây anh em nghe những chuyện tưởng như huyền thoại. Nhưng đó là sự thật, nó chỉ mới xảy ra cách đây mấy chục năm thôi.

Trước kia chúng tôi đã học trong một ngôi trường, nhỏ hơn ngôi trường này và cũng được xây dựng trên mảnh đất này. Trường có ba căn, mỗi căn bằng nửa phòng này. Hai căn dùng làm phòng ngủ, một căn dùng làm phòng học. Phòng hẹp, giường nằm kê sít nhau không có chỗ chen chân vào nên mỗi lần lên giường ngủ cũng rất vất vả. Có khi thiếu giường, chúng tôi phải ghép hai ba cái bàn học lại để ngủ. Chỗ ngủ đã vậy, đồ ăn, đồ mặc, đồ nằm chúng tôi cũng rất thiếu thốn. Mùa nắng cũng như mùa mưa, mỗi người một chiếc chiếu trắng không có hoa. Đồ đắp thì dùng bao đựng gạo thay mền, đồ mặc thì mỗi người chỉ có một vài bộ quần áo thô nhuộm nâu, mùa lạnh không bao giờ có áo ấm. "Tiền tam tam, hậu cũng tam tam" mà thôi.

Tối đến chúng tôi làm gì có đèn điện mà đọc, thậm chí không có cả đèn dầu hỏa, chúng tôi chỉ thắp đèn dầu "chuông", đèn dầu "cây", hoặc thắp nhựa thông để học bài, làm bài. Cứ mỗi người một ngọn đèn, hoặc hai người chung nhau một ngọn đèn. Dưới ánh sáng của ngọn đèn "tù mù" chỉ soi sáng một khoảng không gian nhỏ hẹp bằng một trang sách, chúng tôi chăm chú mà học. Ngoài phạm vi ấy, chúng tôi không thể thấy gì được nữa.

Có lẽ nhờ vậy nên chúng tôi định tâm mà học để có được như ngày nay. Bởi vì, khi chúng ta đã chú ý vào cuốn sách thì tâm ta không tán loạn, tư tưởng mới đọng lại và sáng lên, chúng ta mới giỏi được. Bây giờ chúng ta sung túc quá: trong phòng có đèn trần, đèn để bàn rồi đèn ngủ; ngoài cửa còn để đèn "chong", sợ đi ra vấp ngã.

Ngày xưa, không có những tiện nghi ấy nên người ta sống hòa hợp; người ta sống với trời, đất, trăng, sao, gần gũi với thiên nhiên hơn. Điều đó cũng hợp với tâm tu lắm đó (Thước-ca-la tâm vô động chuyển). Nhờ có hòa hợp với thiên nhiên mà lòng mình bớt được mọi sự phiền não triền phược. Ngược lại, cuộc sống hôm nay tiện nghi đầy đủ làm cho con người cách biệt với thiên nhiên. Đêm người ta không thấy trăng, vì điện sáng quá người ta đâu thấy trăng. Có lẽ vì vậy mà ngày nay trăng không còn là nguồn cảm hứng của thi nhân. Lý Bạch ngày xưa mơ trăng, uống rượu say, nhảy xuống sông ôm trăng mà chết. Người xưa đã hòa nhập với thiên nhiên. Cũng vì cách biệt với thiên nhiên, thành ra tâm người bị phân tán. Tâm đã bị phân tán như vậy, chúng ta làm sao học giỏi được. Người có tâm phân tán như vậy thì chỉ giỏi lý luận mà thôi, còn nói về đạo lý thì không đúng.

Đó là nói về chuyện học và ngủ, còn về vấn đề ăn uống thì chúng tôi rất kham khổ. Tiêu chuẩn là bốn người một bát "chân tượng" cơm, một tô canh "toàn quốc", một đĩa rau luộc hoặc đĩa dưa môn hay là đĩa cải dầm. Ngoài ra, không có món ăn phụ như bánh chuối gì nữa. Hoạ hoằn một năm vài lần được người ta cúng vài "trái chuối". Vì lúc ấy trình độ hiểu biết về Phật pháp của tín đồ còn thấp kém, người phát tâm không nhiều. Hơn nữa, thời đại lúc bấy giờ dân tình cũng còn nghèo đói lắm, muốn cúng các thầy vài buồng chuối cũng phải góp nhau năm bảy người, một người không đủ sức cúng. Tuy chúng tôi kham khổ như thế, nhưng đó cũng là một sự đóng góp rất lớn của những người có nhiệt tâm đối với tương lai của đạo pháp mới được như thế.

Ấy vậy mà lúc bấy giờ chúng tôi học nghiêm túc lắm, sợ thầy lắm, sợ thầy chứ không oán thầy. Bây giờ nghĩ lại càng thương thầy và biết ơn thầy. Đi học là phải có ý sợ thầy, kính thầy mới học được. Chứ nếu không sợ thầy, kính thầy, ngang bướng quá trớn thì không sao học được.

Thời ấy chúng tôi học với một vị giáo sư, trước là một nhà giáo, sau đi tu, tức Hòa thượng Trí Độ. Hễ có ai làm thầy tức giận là thầy phạt luôn cả lớp chứ không phải chỉ đánh một người. Gọi tên người có lỗi chưa kịp lên là thầy đánh luôn tại chỗ. Nhiều khi cả lớp sợ chạy luôn. Tôi kể lại như vậy là để các vị thấy tinh thần học tập của chúng tôi lúc bấy giờ là chỉ sợ thầy chứ không oán thầy. Chúng tôi sống rất vô tư. Học vất vả như thế mà chúng tôi không thấy khổ. Cho đến bây giờ chúng tôi cũng không hề tiếc rằng: Tại sao chúng ta sinh ra thời ấy làm gì cho khổ? Chúng tôi chỉ nghĩ rằng, trên đường đạo, bước sớm được bước nào hay bước đó. Giờ đây tôi nhắc lại như vậy để anh em biết mà chuẩn bị tinh thần, tư cách để mà học.

Đó là tinh thần học, còn giải trí thì không biết chơi gì, chỉ có đánh nhảy, đá kiện, đá bóng. Đá bóng thì không có sân cỏ, chỉ có một cái sân, toàn là sạn. Quả bóng thì nhỏ xíu, vô ý bị tước chân. Chỉ bấy nhiêu trò chơi và chúng tôi chỉ chơi trong sân ấy, không được đi đâu xa. Không chơi những trò chơi nguy hiểm. Tuy thế, cũng có một số anh em vì thiếu tinh thần chịu khó, thiếu kiên nhẫn, nên đã bỏ cuộc. Ví dụ như ông Đỗ Xuân Tiến, ông học rất giỏi và rất thông minh. Có những bài thầy ra, chúng tôi căm cụi làm hai ba ngày chưa xong, khi làm bài xong, đọc nghe trúc trắc thế nào ấy. Trái lại, ông ta cứ chơi cho đã rồi vào viết một lúc là xong. Bài của ông lại rất hay rất lưu loát. Học giỏi như thế, cuối năm ông thi không đậu, vì sao? Vì ông ham chơi quá. Ai rủ đi chơi đâu ông cũng đi, bỏ bê việc học. Nhiều khi ỷ thị tài học và sự thông minh của mình nên không chăm chỉ chuyên cần, bỏ qua nề nếp nhà trường nên mất căn bản về học tập, về đạo đức.

4. Muốn học giỏi là phải tu

Muốn học giỏi phải lo tu. Không tu không học được. Cũng có một số rất ít người đã bỏ học vì những lý do rất nhỏ nhặt, chỉ vì thiếu kiên trì, không kiềm chế được bản năng. Lúc bấy giờ không có những thức ăn phụ nên thích ăn vặt, ấy gọi là ăn hàng. Nhưng thật ra chỉ có vài thứ kẹo đặc sản như kẹo Cau, kẹo Gừng, kẹo Đậu phộng mà thôi. Những anh em ấy không chịu khổ được, không kiềm chế được cái thèm của mình nên phải ăn. Ăn mắc nợ người ta lâu ngày không trả nên người ta đến lớp đòi, các anh ấy xấu hổ bỏ học. Đã bỏ học rồi họ bỏ tu luôn. Chúng tôi nhờ kiên trì chịu khổ, chịu cực mới có ngày hôm nay.

Sau này vì thời cuộc, trường bị phân tán: Chiến tranh bùng nổ, xứ Huế quá nghèo, Hội không đủ sức đài thọ mới đưa một số học Tăng vào Nam, chỉ để lại trường một số ít thôi. Từ đó, chiến tranh liên miên, người thì chết, người thì đi kháng chiến, kẻ thì hoàn tục. Lớp của chúng tôi chỉ còn lại mấy vị như Hòa thượng Trí Tịnh, tôi, Hòa thượng Thiện Minh, Hòa thượng Trí Quang, Hòa thượng Huyền Quang cũng có. Và cũng chính trong thời gian Phật giáo cận đại cũng chỉ số anh em này ra gánh vác việc Đạo. Đó chính là nhờ trong giai đoạn học tập đã có tâm thành thật vô tư, chịu khó, chăm chỉ mà học nên sau này mới có khả năng để ra gánh vác việc Đạo như vậy. Thêm vào nữa là anh em chúng tôi hồi ấy đối với nhau rất chân tình, không có phe đảng gì cả.

Mấy hôm nay, tôi lên thăm Hồng Đức, thấy anh em nằm giường chật chội, tôi rất xót xa! Vì trong số anh em đây chắc có nhiều người ở nhà cũng thoải mái lắm, ở một mình một phòng rộng, có quạt trần, quạt để bàn; có đền trên trần, có đèn đọc sách, có đèn ngủ... Có người còn có radio, tivi, cassette, nữa. Nghĩ như vậy nên mấy hôm nay tôi cứ thấy ngậm ngùi... Bây giờ anh em ở một phòng sáu người thì tuy có hơn chúng tôi thời bấy giờ đôi chút, nhưng so với tiện nghi mà anh em có ở nhà thì ở đây còn chật chội quá! Không biết anh em có suy nghĩ gì không. Nếu thật tình mà nói như lời Phật dạy "Nhất thiết duy tâm tạo" thì chúng ta có thể vì sự học mà quên đi những thiếu thốn vật chất. Vì khi chúng ta để để hết tâm trí vào việc học rồi, thì đâu còn nghĩ đến những tiện nghi vật chất nữa. Lúc ấy đáng lẽ khổ mười phần, chúng ta chỉ thấy khổ một phần hoặc không còn thấy khổ nữa.

Lại như ngày xưa các cụ Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du... các cụ đâu có những tiện nghi vật chất như chúng ta bây giờ, mà sao các cụ cũng trở thành đại thi hào, nhà bác học lỗi lạc và còn để lại cho chúng ta những kiệt tác như thế? Xem đó, đủ biết những tiện nghi vật chất chỉ là những trợ duyên bên ngoài, cái chính nhân của sự học là tâm cầu học, là sự cố gắng nỗ lực, tích cực phát huy khả năng, trí tuệ của mình. Có thể nói anh em bây giờ học chỉ chú trọng bề rộng mà ít chú trọng bề sâu. Phật pháp có nhiều môn, môn nào hợp với khả năng của mình thì nên chú trọng môn ấy hơn, chuyên tâm sưu tầm một cách thấy đáo mới được lợi ích. Cũng như ngoài đời người ta thường nói: "Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh", nghĩa là có một nghề cho thật tinh tường, rồi khéo tay tức là thân được vinh hiển. Cũng vậy chúng ta chỉ cần một môn tinh, sâu, sau này chúng ta mới có thể làm một vị giảng sư vững vàng được.

5. Thái độ học tập

Người xưa nói người có tinh thần học là người:

Bất sỉ hạ vấn: Là không hổ thẹn khi cúi mình học hỏi người kém nhỏ hơn mình. Vì sao? Vì có người kém hơn mình nhiều điều nhưng có thể có một điều nào đó người ấy giỏi hơn mình, mình nên cúi mình học hỏi họ.

Dũ học dũ ngu: Nghĩa là càng học càng thấy ngu. Không bao giờ chúng ta được phép tự phụ cho là mình biết đủ và có ý khinh mạn sư trưởng, phải luôn luôn tự thấy mình thiếu thốn về kiến thức, về tri thức.

Tinh tiến đạo hạnh: Không những về kiến thức, tri thức mà về đạo hạnh cũng vậy. Đức Phật ngày xưa đã từng tắm rửa cho một vị Tỷ-kheo đau ốm và xâu kim cho một bà già loà mắt. Thấy vậy, có người đệ tử hỏi Ngài: "Đức Thế Tôn đã đầy đủ, viên mãn phước đức rồi, sao Ngài còn làm những việc phước nhỏ như thế nữa làm gì?" Ngài bảo: "Phước đức đối với ta không bao giờ đủ cả". Đó là một bài học cho chúng ta, Phật mà còn như vậy, huống hồ chúng ta là kẻ thiếu học, thiếu đức, chưa có gì đáng để tự phụ. Như vậy, chúng ta phải luôn luôn giữ tâm hồn trong trắng, vô tư, khiêm tốn, không kiêu căng ngạo mạn. Đó là những đức tính cần thiết để làm việc trong tương lai. Có những người rất giỏi nhưng không ai dùng cả vì quá tự phụ, vì họ thiếu đức, thiếu tu. Ở đời mà thiếu đức, thiếu tu cũng không nên làm việc lớn, huống gì trong Đạo. Vì thế, tôi mong rằng trong Viện chúng ta, anh em giữ tư cách đàng hoàng về học cũng như về hành. Học viện này tốt hay xấu, có tồn tại lâu dài hay không, còn tùy cả ở tư cách đạo đức của anh em. Chúng ta không nên chạy theo tiện nghi vật chất quá đáng, vì đã gọi là "bần Tăng tam thường bất túc" mà chúng ta xa xỉ, thừa thãi quá thì đó là điều đáng hổ thẹn.

Ý thức trách nhiệm: Mở được Học viện này là điều rất quý hóa, là niệm hoan hỷ chung cho hàng Phật tử xuất gia cũng như tại gia. Cho nên, chúng ta phải cố gắng làm sao để Học viện xứng đáng là một Học viện Phật giáo khiến cho hàng Phật tử tại gia tin tưởng vào chúng ta, tin tưởng vào tương lai đạo pháp. Đó cũng chính là một cách chúng ta hoằng dương rồi, chứ không phải đợi sau này ra thuyết giảng cho họ mới là hoằng đạo. Nếu Học viện không xứng đáng là một Học viện Phật giáo, làm cho hàng Phật tử tại gia mất tin tưởngchúng ta, ở tương lai đạo pháp, thì vô hình chung chúng ta làm cho họ thoái thất tín tâm.

Học viện đòi hỏi sự đóng góp tích cực của anh em để xây dựng Học viện vững chắc, xứng đáng là một Học viện Phật giáo bằng chính thái độ học tập nghiêm túc, ý thức giữ gìn oai nghi tế hạnh của anh em. Tôi nói như thế là để anh em thấy cái trách nhiệm chung đối với Học viện. Ngay bản thân tôi bây giờ đã gần 80 tuổi rồi, tôi không còn ham muốn gì nữa mà đành phải ra gánh vác việc chung, vì tôi nghĩ rằng mình được ngày hôm nay là nhờ ai, nhờ Tam Bảo, nên tôi phải làm việc hết mình. Trang Tử ngày xưa có nói: "Người ta ở đời có tam bất hủ là lập ngôn, lập công và lập đức". Chúng ta bây giờ cũng vậy, cái tâm cầu học, cái chí nguyện hoằng pháp lợi sinh làm sự nghiệp của chúng tathời gian không gian không thể chi phối được. Mong rằng chúng ta luôn luôn giữ vững lập trường trong giảng dạy cũng như trong học tập tấn tu Đạo nghiệp.

Tôi nói chuyện với anh em bấy nhiêu. Mong rằng anh em cố gắng, chúng ta cùng nhau xây dựng Học viện một cách tốt đẹp, làm cơ bản cho các lớp hậu học, hầu mong sau này có được những bậc Tăng Ni có thực học, thực đức để ra phục vụ Đạo pháp, báo Phật ân đức.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10201)
Sự sinh ra cao quý, tự dothuận lợi này thật khó có được. Cầu mong con không lãng phísử dụng nó một cách có ý nghĩa.
(Xem: 11259)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
(Xem: 13595)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sángtinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
(Xem: 13750)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
(Xem: 22228)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 21879)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 27393)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17792)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11743)
Tinh thần Đại thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi tầng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
(Xem: 12331)
Là một tu sĩ Phật giáo Việt Namtrách nhiệm và nhiều nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo tôi tán thán, biết việc gì dở tôi chê trách, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
(Xem: 25254)
Chúng ta tu Thiền là cốt cho tâm được thanh tịnh trong lặng. Từ tâm thanh tịnh trong lặng đó hiện ra trí vô sư. Trí vô sư hiện ra rồi thì chúng ta thấy biết những gì trước kia ta chưa hề thấy biết...
(Xem: 23298)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 28600)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 22785)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 25731)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 22317)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14005)
Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng.
(Xem: 13444)
Bước đường hành đạo của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi vị...
(Xem: 22496)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 26409)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 18493)
Bản thể hiện tiền là Sự Sống Duy Nhất vĩnh hằng, luôn hiện tiền, vượt quá hằng hà sa số dạng hình thức sinh linh vốn lệ thuộc vào sinh và diệt.
(Xem: 18972)
Khi bạn chú tâm đến sự yên lặng, ngay lập tức có một trạng thái cảnh giác nhưng rất im lắng ở nội tâm. Bạn đang hiện diện. Bạn vừa bước ra khỏi thói quen suy tưởng của tâm thức cộng đồng...
(Xem: 34530)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27401)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28438)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 21403)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 14910)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổvô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
(Xem: 19224)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong những hình tượng gần gũi nhất với hầu hết tín đồ Phật giáo, dù ở bất cứ nơi đâu, dù thuộc tầng lớp nào. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi...
(Xem: 10624)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
(Xem: 18582)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
(Xem: 15668)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
(Xem: 13198)
Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn...
(Xem: 13425)
Tuy ra đời khá sớm trong dòng văn học Phật giáo, nhưng cho đến nay, điểm thú vị của độc giả khi đọc lại tập sách này là vẫn có thể nhận ra được những vấn đề quen thuộc với cuộc sống hiện nay của bản thân mình.
(Xem: 14032)
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời...
(Xem: 11797)
Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật...
(Xem: 11636)
Chính là nhờ vào con đường tu tập, vào sự bứng nhổ tận gốc rễ cái ảo tưởng rằng ta là một cá thể riêng biệt mà ta tìm lại được hạnh phúc chân thật sẵn có trong ta.
(Xem: 11348)
Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh...
(Xem: 11906)
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu...
(Xem: 19952)
Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
(Xem: 12402)
Ở xứ Tây Tạng, tạo hóa và dân sự dường như bảo nhau mà giữ không cho kẻ lạ bước vào! Núi cao chập chùng lên tận mây xanh có tuyết phủ...
(Xem: 13946)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
(Xem: 13278)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sátnghiên cứu rất nhiều.
(Xem: 31999)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13446)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi.
(Xem: 12759)
Đây là một cuốn nhật ký ghi chép cuộc hành trình đi về Ấn Độ để học đạo. Tác giả nhân khi chùa Văn Thù Sư Lợi tổ chức chuyến đi hành hương các Phật tích tại Ấn đã tháp tùng theo...
(Xem: 13340)
Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo, chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
(Xem: 11907)
Trời bên này đã thật sự vào thu rồi đó! Buổi chiều, con đường về nhà hai bên rừng có ngàn lá đổi sang màu trái chín, đẹp kỳ diệu.
(Xem: 21876)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 11102)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa.
(Xem: 12911)
Các chân sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng, năng lực của tình thương luôn che chở các ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant