Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

19. Vài nhận xét về nghi lễ trong Phật giáo

10 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 5915)
19. Vài nhận xét về nghi lễ trong Phật giáo


THC BIN
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003

VÀI NHẬN XÉT VỀ NGHI LỄ TRONG PHẬT GIÁO

 

Nghi lễ là một bộ phận sinh hoạt không thể thiếu được trong Phật giáo. Tuy nhiên, sinh hoạt đó gần như chiếm hết thì giờ trong đời sống người xuất gia hiện nay! Nếu nghi lễ không được đặt để trong khuôn khổ chính đáng của Phật pháp, không được dùng với mục đích mượn hình thức để tuyên dương Phật pháp, dẫn kẻ sơ cơ vào đạo, dùng nghi lễ để điều hòa tình cảm và lý trí, làm sao cho con người được nhịp nhàng tiến bộ như người xưa chế ra nó, thì nghi lễ sẽ thiếu năng lực đưa người vào chánh đạo, và có tác động xấu đến tâm lý, sẽ gây ngộ nhận đối với quần chúng. Nghi lễ khi đã không đi đúng quỹ đạo làm phương tiện phụng sự đạo pháp, chắc rằng người đời sẽ mãi cho đạo Phậtmê tín, dị đoan, thoái hóa, ru ngủ quần chúng.

Nói như thế, nhưng Phật giáo có nên bỏ hẳn nghi lễ được không? Theo tôi, không thể được. Vì tất cả các tôn giáo, đoàn thể giữa thế gian này không ai là không dùng nghi lễ để phục vụ cho tín ngưỡng của mình. Nếu Phật giáo bỏ phần đó tức là đã bỏ rơi một số người muốn quay về với Chánh pháp. Hơn nữa, đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ, dùng bốn vạn tám ngàn pháp môn phương tiện để đưa người đến bờ giải thoát. Đức Phật, ngoài giảng dạy trực tiếp cho các Tỷ-kheo, Tỷ kheo-ni, các nam nữ cư sĩ, Ngài còn lấy tâm truyền tâm cho Tôn giả Ca-diếp gọi là "Niêm hoa vi tiếu". Kinh luận Phật giáo Đại thừa thường hay nhắc câu chuyện: Một hôm, trong hội chúng đông đảo, đức Thế Tôn không nói gì khi Ngài ngồi trên Pháp toà, im lặng như Chánh Pháp. Thính chúng ai nấy cũng im lặng. Lúc ấy Thế Tôn nhẹ nhàng đưa một cành hoa lên trước đám đông, hội chúng không ai hiểu gì trước cử chỉý nghĩa của đức Thế Tôn. Chỉ có Tôn giả Ca-diếp im lặng mỉm cườiThế Tôn mỉm cười hoan hỷ. Câu chuyện lấy tâm truyền tâm chỉ có một nụ cười trực ngộ giải thoát là như vậy, cho nên trong Phật giáo, ngoài phần tâm truyền phải có phần công truyền thì mới tùy cơ giáo hóa chúng sinh được. Trong phần công truyền, hình thức nghi lễ là một, và thực tế nó đã có một nhiệm vụ lớn lao, cảnh tỉnh đa số quần chúngcăn cơ chỉ duyên cảm để tin Phật trước khi cần hiểu để theo.

Nghi lễ Phật giáocông năng tốt đẹp như thế, vậy thì tư cách của người thi hành nó phải như thế nào để quần chúng Phật tử và người đời khỏi hiểu lầmPhật giáo lợi dụng hình thức nghi lễ để buôn bán thánh thần? Theo tôi, nghi lễ ngày nay cần chú ý các mặt sau đây:

- Tư cách người thi hành lễ phải xứng đáng, để gây sự tôn kínhtin tưởng Tam Bảo trong lòng mọi người.

- Tránh mọi hình thức rườm rà, thiếu trang nghiêm trong khi hành lễ. Phải giữ điều cần yếu khi hành lễThành tâmKính Phật.

- Không xen lẫn những hình thức nghi lễ của ngoại đạo vào Phật giáo, hoặc đem nghi lễ Phật giáo thi thố ở những nơi tà đạo. Nghĩa là phải nhận thức đại cương về các nghi lễ, trong đó thứ nào nên tránh và thứ nào nên theo. Thiết nghĩ, chúng ta nên chia ra các mục sau đây trong nghi lễ Phật giáo.

1. Thờ tự

Thờ tự có nhiều ý nghĩa. Thờ với tính cách tri ân như thờ cha mẹ, sư trưởng. Thờ với tính cách tôn kính như thờ các vị anh hùng hiền triết trong lịch sử. Đối với người xuất gia, khi làm lễ thọ giới pháp của Phật chế, trước hết, họ phải làm lễ lạy tạ cha mẹ, từ đó về sau trên danh nghĩa là một người "nhân thiên nhãn mục", không còn trở lại bái phục quân vương, phụ mẫu nữa. Tuy nhiên, người xuất gia cũng luôn luôn tưởng niệm các vị ân nhân, nhất là ân cha mẹcầu nguyện hết thảy đều được siêu sanh Lạc độ. Duy nhất, với tính cách vừa tri ân vừa tôn kính đối với bậc Đạo sư chỉ đường thoát khổ, người xuất gia nên thờ Tam Bảo mà thôi. Nhưng Tam Bảo theo quan niệm Bắc tôngNam tông khác nhau. Theo quan niệm Nam tông thì chỉ thấy Phật trong một đời. Khi ngài nhập diệt rồi thì Phật thân đã an trú trong cảnh Niết-bàn, nhưng họ tin vào Phật, họ tín ngưỡng, tôn thờ như Phật còn tại thế. Vậy nên, các nước theo Nam tông như Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến điện, Tích Lan... họ thờ Phật là cốt để tri ân Đấng giáo chủ ban bố Chánh Pháp cho chúng sinh đã qua đời, hơn là để mong cầu cảm ứng. Trái lại, theo quan niệm Bắc tông, với pháp nhãn đạt quang, thấy Phật khắp cả mười phương, thông suốt tương tục vô thỉ vô chung, ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai không gián đoạn tâm Phật trong mỗi người thờ Phật như Việt Nam, Trung Hoa, Nhật bản, Đại Hàn, Mông Cổ... Vì vậy, họ thờ Phật vừa để kỷ niệm, mà cũng vừa cầu sự cảm ứng gia hộ cho đệ tử trên bước đường tu tập. Họ quan niệm: Phật thường trú thế gian, nên một khi tượng Phật đã tôn thờ trên toà sen tức xem như Phật còn tại thế, Ngài luôn luôn nhìn thấy hành động của đệ tửcảm ứng đạo tâm, hiển hiện Phật lực để an ủi, khuyên răn và gia trì hộ niệm.

Thế nhưng, ở Việt nam chúng ta ngày nay vấn đề thờ tự đã trở nên phức tạp nhiều. Một ngôi chùa đúng lý để thờ Tam Bảo hoặc thờ Tam Thế Phật nhưng nơi lại thờ luôn Quan Thánh, Ngọc hoàng, Thánh mẫu, Thập điện như nhiều chùa thuộc khu vực miền Nam và miền Trung. Thờ luôn cả thánh mẫu thì nhiều nhất là các chùa miền Bắc. Đó là chưa nói thờ nhiều hình tượng khác không dính dáng gì đến đạo Phật. Thế gian, một số người cho rằng, bất cứ tượng nào, hễ lọt vào mắt nhà chùa cũng trở nên linh thiêng, đưa vào chùa thờ được cả, thậm chí còn có cả ông địa nữa. Tệ hại hơn có người không thờ tại chùa, lại bày vẽ a tòng những nơi thờ thiếu trang nghiêm, có vẻ tà mị yêu quái, mê tín dị đoan...

Đau lòng thay! Một ngôi chùa đáng lý để làm nơi tập Chúng tu hành, hoằng dương Chánh pháp, lại biến thành một ngôi chùa riêng độc quyền chiêm ngưỡng, hoặc lấy đó làm nơi cúng kiến để nuôi thân. Dầu có nơi khá hơn, trong chùa cũng thờ Phật, nhưng lại thiếu tấm lòng thành kính, tôn trí những hình tượng Phật và Bồ-tát không có tướng hảo trang nghiêm, lại còn treo những ảnh tượng hình thù kỳ quái ở hai bên bàn thờ, cắm những tờ bùa, câu chú trước điện Phật. Thật là một điều tội lỗi lớn, như trong kinh Tạo Tượng đã nói. Với những ngôi chùa như vậy, mục đích là chỉ biết cúng kiến, nào đâu phải vì vấn đề giải thoát sanh tử đại sự, tập Chúng tu học cầu mong giải thoát. Thảm thương thay! Một lối thờ cúng như vậy lại làm cho Đạo Phật suy yếu biết dường nào.

2. Cúng kính

Đã có thờ tất nhiên có cúng. Vì nhớ ân, trọng nghĩa mà cúng, vì linh khí kẻ mất người còn giao cảm nhau mà cúng. Nhưng với người xuất gia thì thường chỉ cúng Tam Bảo mà thôi. Ngoài ra, vì sự lợi thabáo hiếu, người xuất gia có thể cúng vọng tiến linh, cúng thí thực, cô hồn, kỳ an, kỳ siêu. Tuy nhiên, trong những cách cúng nói trên, một số người đã quá lạm dụng nghi lễ, biến nó trở nên phức tạpcầu kỳ, khiến cho quần chúng cảm thấy nhà Sư là ông thầy cúng nhiều hơn là một vị tu hành để truyền bá Chánh pháp. Dưới mắt Phật tửquần chúng đối với các nhà Sư trên, hầu như mục đích của nhà Sư là cúng, cho đến chí nguyện của nhà Sư cũng chỉ cúng mà thôi.

Trong thời trước, tôi thấy thế gian biết cúng một chuyện thì nhà Sư biết cúng trăm chuyện, thế gian biết một vị thần thì nhà Sư biết đến trăm vị thần. Ngoài lối cúng kiến nói trên, nhà Sư còn thạo cúng đất, cúng sao, cúng nam thương, yểu tử, cúng giải đàn oan, sai phan, sai phướng, cúng ngũ hành, thổ địa, hạ khoán, sai muội, cúng thánh, cúng thần, cúng tiên nương, Tôn giả, bổn mạng, bà mẫu... Lại còn cúng tốt vườn, tốt đất, tốt nhà, tốt bếp, cúng đưa ông Táo về trời... Bởi vậy chốn Già-lam mất hẳn tính cách trang nghiêm thanh tịnh, không thể tập Chúng tu hành, tuyên dương chánh giáo. Ngược lại, chùa trở thành nơi tập trung mọi sự cúng kính vì lẽ này hay kế nọ. Thậm chí có nơi còn khuyên tín đồ thờ cúng, lạy lục quỷ thần hơn lạy Phật, mà quên đi rằng: Người Phật tử đã quy y Tam Bảophát nguyện: Quy y Phật, thề không quy y thiên thần quỷ vật. Nếu không tỉnh ngộ, chánh pháp vì vậy càng xa, tà pháp càng gây hoạ cho người. Thật xót thương thay!

3. Lễ phục

Theo Phật chế, ba pháp y là áo mặc duy nhất của Tăng đồ, và khi thọ giới, Tăng-già đã nguyện mặc y phấn ảo, một y trong ba y để làm trang phục hoạt dung hàng ngày như thuyết pháp, hành lễ, thọ trai... Vì đó là y phước điền, y giải thoát, không gì hơn nữa, miễn là giới đức tinh nghiêm thì đó là sự trang sức, là lễ phục đẹp nhất để cúng dường Tam Bảo vậy.

Nay vì quốc độ, và tùy theo phong tục khác nhau, Phật giáo Bắc tông đã cải hóa theo thế nghi, tạo thành một lối lễ phục rườm rà hơn trước. Khi đến Việt Nam, nó lại cải hóa thêm một lần nữa.

Một chuyện đau lòng mà vào thời tôi đã chứng kiến, đó là sự phục sức lai hóa đến mức khó chịu. Thế nhưng nó vẫn cứ là cái mẫu lai tạp của thời đại trong Phật giáo. Những nhiễu y viền kim tuyến, nhưng đôi giày Tàu gắn bông đỏ, được mang vào một cách trịnh trọng và tỏ vẻ sang trọng hào nhoáng trong mỗi kỳ đại lễ. Trong những lễ này, dẫu ai tu hành cho mấy mà thiếu cái y kim tuyến, đôi giày Tàu thì cũng phải nhường chỗ cho người có nó đứng làm chủ lễ. Lẽ tất nhiên, khi mang chiếc y đẹp thì nó bắt người mang phải nhớ nó hơn nhớ Phật, chú trọng mình hơn trọng người khác. Vì vậy, buổi lễ thiếu hẳn tinh thần cao quí vốn có của nó. Nhớ lại lời di huấn của Phật: Pháp dục diệt thời ca-sa biến vị ngũ sắc, thì hiện trạng y phục này thật đáng buồn! Tôi nghĩ, những lễ phục, nhạc điệu đơn thuầnđứng đắn, điều hòa mà tôn nghiêm có lẽ giữ cho buổi lễ tăng phần trang trọng lợi lạc hơn.

4. Truyền giới

Lễ truyền giới cũng là lễ thường xuyên và thiết yếu của Tăng-già như lễ truyền giới Tam qui, Ngũ giới, Bát quan trai giới, Cụ túc giới và Bồ-tát giới, nhưng cũng phải theo quy tắc đã chỉ dạy trong các bộ Đại học Hoằng giới, Yết-ma Chỉ nam, Thọ giới Nghi Quỷ hoặc trong Luật tạng; và người truyền cũng như người thọ phải thành tâm thành kính, biết tôn trọng giới thể mới được. Nếu không thì lễ thọ giới chỉ là một kiểu mẫu thời trang, trong đó người truyền không biết truyền gì, còn người thọ không biết thọ gì, thế mà vẫn truyền, vẫn thọ.

Khi sắp Niết-bàn, đức Phật đã ân cần dặn dò: "Giới Ta còn thì như Ta còn, giới Ta còn thì đạo ta còn". Như thế, truyền giới là lễ rất quan trọng định đoạt sự nghiệp còn mất của Phật giáo.

Tóm lại, theo tôi: Nghi lễcông dụng gần quần chúng, làm phương tiện tiên phong để truyền bá đạo Phật. Thế nhưng, một khi vai trò tiên phong đã không đi đúng pháp, không hướng người theo chánh pháp thì chỉ dẫn người vào ma đạo mà thôi. Vậy để văn hồi địa vị cao cả của đạo Phật, tất cả Tăng giới phải chỉnh đốn hết thảy mọi mặt mà trong đó có cả nghi lễ. Về nghi lễ, phải chỉnh đốn như thờ tự đơn giản, sự cúng kính phải trang nghiêm, gạt bỏ những lối thờ cúng thần đạo ra ngoài, lễ phục cũng như tư cách người thực hành nghi lễ, đều phải chỉnh đốn đúng Luật và trang nghiêm mới mong gây được thiện cảmtín tâm trong lòng người muốn quay về với đạo.

Tôi hy vọng những điều nhận xét trên đây được chư Tăng, Ni đồng cảm và nếu thấy sai thì nên sửa chữa. Tôi cũng mong Giáo hội sẽ sớm đưa ra các nghi thức hành lễ chung cả Tăng tín đồ toàn quốc áp dụng, hầu đem lại lợi lạc cho Phật giáo vậy.

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14875)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17803)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18218)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14993)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13191)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21168)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32589)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15320)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12350)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12836)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27531)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12138)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34965)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17751)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11828)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12651)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14571)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32473)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19461)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12971)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14087)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14272)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15318)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14145)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14136)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11959)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53178)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11665)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13927)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13822)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20696)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14313)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13432)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13619)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34178)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16211)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14073)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14203)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13566)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15916)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13517)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22978)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27748)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13906)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24977)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13953)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31335)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13867)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15563)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14980)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant