Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

15. Khuyến tu

10 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 5653)
15. Khuyến tu


THC BIN
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003

KHUYẾN TU

(Bài nói chuyện với Tăng Ni, nhân mùa khai giảng Học viện Phật giáo Việt Nam
tại Huế, khóa I, niên học 1997-2001)

Trong đời này, đã là người đi học thì ai cũng muốn học giỏi. Vậy muốn học giỏi phải làm thế nào? Theo tôi nghĩ:

1. Phải có tâm cầu học

Chúng ta phải thật sự có tâm cầu học, phải thành thật có tâm cầu học. Vì thường chúng ta hay nghĩ: Học để khỏi thua người khác. Đó chỉ là cái ý so sánh để khích lệ chúng ta học tập mà thôi. Cái chính là chúng ta phải ý thức chúng ta là một người xuất gia học Phật, theo một đấng Giáo chủ với một đạo lý thâm huyền, chúng ta phải có bổn phận tu đạo, hành đạohóa đạo. Nếu chúng ta không biết gì về giáo lý của Phật cả thì tự chúng ta tu cũng không thành và chắc chắn không ai hóa độ ai được cả.

Khi chúng ta nói học để khỏi thua người khác thì giả sử khi không sợ thua người khác thì chúng ta không học hay sao? Cho nên, học để khỏi thua người khác chỉ là một lý do chúng ta tự đặt ra để khuyến khích chúng ta thôi, không phải là lý do chính. Lý do chính là tâm thành thật cầu học đạo. Bởi vì như chúng ta biết, đạo lý của Phật phải có duyên lành mới gặp được. Đạo Phật là đạo giải thoát, đức Phậtđấng Giác ngộ thì giáo lý của Phật là kho tàng đạo lý giác ngộ. Nếu chúng ta không học thì làm sao chúng ta biết được đạo lý ấy? Nhiều khi vô tình chúng ta nói: Đạo Phật cao siêu lắm. Nhưng nếu có người hỏi Đạo Phật cao siêu ở chỗ nào, thì chúng ta không làm sao đáp được. Đó là một khuyết điểm lớn đáng buồn.

Các anh em cũng thấy rõ trong hàng Tăng ni chúng ta bây giờ có một số thường mắc phải cái bệnh lý luận: Bàn những việc khác của thế gian thì lý luận rất rạch ròi, nhưng khi đi vào giáo lý, giáo pháp của Phật thì lúng túng, lập luận không vững vàng, cụ thể.

Bây giờ muốn tránh cái bệnh ấy, chúng ta phải cố tâm cầu học thật sự. Cầu học thật sự để hiểu rõ giáo ý của Phật, hiểu rõ con đường tu hành để có khả năng giáo hóa người khác một cách đúng đắn, chứ không phải chắp vá, lấy nơi này một câu, lấy nơi khác một câu làm kiến thức của mình. Nhiều khi chúng ta đem một câu của ngoại đạo mà cho là của đạo mình. Hiện tại có nhiều sách của ngoại đạo viết, họ dùng giáo lý của đạo chúng ta để tô bồi, ca ngợi chủ trương giáo lý của họ, hoặc là để chê bai, chỉ trích chúng ta. Nếu chúng ta không học thì khi đọc những sách ấy, chúng ta vội cho đấy là lời Phật nói. Tất cả những lời họ nói, chúng ta đều cho là lời Phật nói, cho là đúng rồi tin theo. Trước đây có nhiều người cũng dịch kinh Kim-cang, viết về Bồ-tát hạnh mà kỳ thật là người đâu đâu viết, người ngoại đạo viết chứ không phải người của Phật giáo. Họ viết như vậy để làm gì? Họ nêu những danh từ Phật giáo để hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, để làm cho người ta tưởng lầm là sách đạo Phật nên đua nhau đọc, nhưng thật chất không có gì là đạo Phật cả. Nếu chúng ta không học, chúng ta cũng tưởng là sách Phật, rồi chúng ta truyền bá cho tín đồ, khuyên họ nên mua cuốn sách ấy mà đọc. Như vậy, vô tình chúng ta truyền bá cái tà đạo, trưyền bá cái tà kiếnchúng ta không biết, đó mới thật đúng là "ăn cơm Phật, đốt râu thầy chùa". Thành thử chúng ta thấy tâm cầu học là một điều hết sức cần thiết: cần thiết cho mình, cần thiết cho đạo, cần thiết cho sự nghiệp hành đạohóa đạo.

Lại nữa, chúng ta học vì sợ thua người khác thì khi không sợ thua người khác chúng ta không học hay sao? Thí dụ trong lớp có một người học rất giỏi, mình luôn cố gắng học để khỏi thua người ấy. Bỗng nhiên người ấy bỏ học. Bây giờ đến lớp, mình không sợ thua ai nữa, nên không cần học nữa. Cho nên, cái tâm niệm học để khỏi thua người khác có cái tai hại như thế. Thành thử muốn học giởi thì phải có tâm cầu học. Chính cái tâm ấy là tâm thiết tha mong cầu đạo giải thoát của người xuất gia. Chính cái chánh nhân ấy thúc đẩy, khích lệ chúng ta học giỏi để phục vụ đạo pháp.

2. Phải chăm chỉ chuyên cần

Có tâm cầu học rồi nhưng nếu không chăm chỉ, chuyên cần thì chúng ta cũng không giỏi được. Đi học không chuyên cần, đến lớp không chăm chú nghe giảng bài, không ghi chép, về nhà không xem kỹ lại bài học, không làm bài tập thì không sao giỏi được. Chăm chỉ, chuyên cần thật sự rất cần thiết đối với chúng ta.

3. Phải có tâm tu, phải có đức tu

Nghĩa là phải biết chịu thương chịu khó, chịu khổ chịu cực, mới học được. Chúng ta nói "Tu Học" chứ không nói "Học Tu", nên Tu là chính, Học là để biết đường Tu. Chúng ta nói Tu Học cũng như đạo Nho nói "tiên học lễ, hậu học văn". Lễ là quan trọng, Văn là thứ yếu. Cũng vậy, các anh em bây giờ cần Tu mới tới đây Học, không Tu anh em tới đây để làm gì? Tu và Học gắn liền với nhau. Như vậy, nên trong thời gian học ở đây, anh em phải tu mới học được; nghĩa là phải chịu thương chịu khó, chịu khổ chịu cực để mà học.

Hoàn cảnh ăn, ở, học của anh em bây giờ đầy đủ tiện nghi hơn chúng tôi ngày trước kia rất nhiều lắm. Bây giờ tôi kể ra đây anh em nghe những chuyện tưởng như huyền thoại. Nhưng đó là sự thật, nó chỉ mới xảy ra cách đây mấy chục năm thôi.

Trước kia chúng tôi đã học trong một ngôi trường, nhỏ hơn ngôi trường này và cũng được xây dựng trên mảnh đất này. Trường có ba căn, mỗi căn bằng nửa phòng này. Hai căn dùng làm phòng ngủ, một căn dùng làm phòng học. Phòng hẹp, giường nằm kê sít nhau không có chỗ chen chân vào nên mỗi lần lên giường ngủ cũng rất vất vả. Có khi thiếu giường, chúng tôi phải ghép hai ba cái bàn học lại để ngủ. Chỗ ngủ đã vậy, đồ ăn, đồ mặc, đồ nằm chúng tôi cũng rất thiếu thốn. Mùa nắng cũng như mùa mưa, mỗi người một chiếc chiếu trắng không có hoa. Đồ đắp thì dùng bao đựng gạo thay mền, đồ mặc thì mỗi người chỉ có một vài bộ quần áo thô nhuộm nâu, mùa lạnh không bao giờ có áo ấm. "Tiền tam tam, hậu cũng tam tam" mà thôi.

Tối đến chúng tôi làm gì có đèn điện mà đọc, thậm chí không có cả đèn dầu hỏa, chúng tôi chỉ thắp đèn dầu "chuông", đèn dầu "cây", hoặc thắp nhựa thông để học bài, làm bài. Cứ mỗi người một ngọn đèn, hoặc hai người chung nhau một ngọn đèn. Dưới ánh sáng của ngọn đèn "tù mù" chỉ soi sáng một khoảng không gian nhỏ hẹp bằng một trang sách, chúng tôi chăm chú mà học. Ngoài phạm vi ấy, chúng tôi không thể thấy gì được nữa.

Có lẽ nhờ vậy nên chúng tôi định tâm mà học để có được như ngày nay. Bởi vì, khi chúng ta đã chú ý vào cuốn sách thì tâm ta không tán loạn, tư tưởng mới đọng lại và sáng lên, chúng ta mới giỏi được. Bây giờ chúng ta sung túc quá: trong phòng có đèn trần, đèn để bàn rồi đèn ngủ; ngoài cửa còn để đèn "chong", sợ đi ra vấp ngã.

Ngày xưa, không có những tiện nghi ấy nên người ta sống hòa hợp; người ta sống với trời, đất, trăng, sao, gần gũi với thiên nhiên hơn. Điều đó cũng hợp với tâm tu lắm đó (Thước-ca-la tâm vô động chuyển). Nhờ có hòa hợp với thiên nhiên mà lòng mình bớt được mọi sự phiền não triền phược. Ngược lại, cuộc sống hôm nay tiện nghi đầy đủ làm cho con người cách biệt với thiên nhiên. Đêm người ta không thấy trăng, vì điện sáng quá người ta đâu thấy trăng. Có lẽ vì vậy mà ngày nay trăng không còn là nguồn cảm hứng của thi nhân. Lý Bạch ngày xưa mơ trăng, uống rượu say, nhảy xuống sông ôm trăng mà chết. Người xưa đã hòa nhập với thiên nhiên. Cũng vì cách biệt với thiên nhiên, thành ra tâm người bị phân tán. Tâm đã bị phân tán như vậy, chúng ta làm sao học giỏi được. Người có tâm phân tán như vậy thì chỉ giỏi lý luận mà thôi, còn nói về đạo lý thì không đúng.

Đó là nói về chuyện học và ngủ, còn về vấn đề ăn uống thì chúng tôi rất kham khổ. Tiêu chuẩn là bốn người một bát "chân tượng" cơm, một tô canh "toàn quốc", một đĩa rau luộc hoặc đĩa dưa môn hay là đĩa cải dầm. Ngoài ra, không có món ăn phụ như bánh chuối gì nữa. Hoạ hoằn một năm vài lần được người ta cúng vài "trái chuối". Vì lúc ấy trình độ hiểu biết về Phật pháp của tín đồ còn thấp kém, người phát tâm không nhiều. Hơn nữa, thời đại lúc bấy giờ dân tình cũng còn nghèo đói lắm, muốn cúng các thầy vài buồng chuối cũng phải góp nhau năm bảy người, một người không đủ sức cúng. Tuy chúng tôi kham khổ như thế, nhưng đó cũng là một sự đóng góp rất lớn của những người có nhiệt tâm đối với tương lai của đạo pháp mới được như thế.

Ấy vậy mà lúc bấy giờ chúng tôi học nghiêm túc lắm, sợ thầy lắm, sợ thầy chứ không oán thầy. Bây giờ nghĩ lại càng thương thầy và biết ơn thầy. Đi học là phải có ý sợ thầy, kính thầy mới học được. Chứ nếu không sợ thầy, kính thầy, ngang bướng quá trớn thì không sao học được.

Thời ấy chúng tôi học với một vị giáo sư, trước là một nhà giáo, sau đi tu, tức Hòa thượng Trí Độ. Hễ có ai làm thầy tức giận là thầy phạt luôn cả lớp chứ không phải chỉ đánh một người. Gọi tên người có lỗi chưa kịp lên là thầy đánh luôn tại chỗ. Nhiều khi cả lớp sợ chạy luôn. Tôi kể lại như vậy là để các vị thấy tinh thần học tập của chúng tôi lúc bấy giờ là chỉ sợ thầy chứ không oán thầy. Chúng tôi sống rất vô tư. Học vất vả như thế mà chúng tôi không thấy khổ. Cho đến bây giờ chúng tôi cũng không hề tiếc rằng: Tại sao chúng ta sinh ra thời ấy làm gì cho khổ? Chúng tôi chỉ nghĩ rằng, trên đường đạo, bước sớm được bước nào hay bước đó. Giờ đây tôi nhắc lại như vậy để anh em biết mà chuẩn bị tinh thần, tư cách để mà học.

Đó là tinh thần học, còn giải trí thì không biết chơi gì, chỉ có đánh nhảy, đá kiện, đá bóng. Đá bóng thì không có sân cỏ, chỉ có một cái sân, toàn là sạn. Quả bóng thì nhỏ xíu, vô ý bị tước chân. Chỉ bấy nhiêu trò chơi và chúng tôi chỉ chơi trong sân ấy, không được đi đâu xa. Không chơi những trò chơi nguy hiểm. Tuy thế, cũng có một số anh em vì thiếu tinh thần chịu khó, thiếu kiên nhẫn, nên đã bỏ cuộc. Ví dụ như ông Đỗ Xuân Tiến, ông học rất giỏi và rất thông minh. Có những bài thầy ra, chúng tôi căm cụi làm hai ba ngày chưa xong, khi làm bài xong, đọc nghe trúc trắc thế nào ấy. Trái lại, ông ta cứ chơi cho đã rồi vào viết một lúc là xong. Bài của ông lại rất hay rất lưu loát. Học giỏi như thế, cuối năm ông thi không đậu, vì sao? Vì ông ham chơi quá. Ai rủ đi chơi đâu ông cũng đi, bỏ bê việc học. Nhiều khi ỷ thị tài học và sự thông minh của mình nên không chăm chỉ chuyên cần, bỏ qua nề nếp nhà trường nên mất căn bản về học tập, về đạo đức.

4. Muốn học giỏi là phải tu

Muốn học giỏi phải lo tu. Không tu không học được. Cũng có một số rất ít người đã bỏ học vì những lý do rất nhỏ nhặt, chỉ vì thiếu kiên trì, không kiềm chế được bản năng. Lúc bấy giờ không có những thức ăn phụ nên thích ăn vặt, ấy gọi là ăn hàng. Nhưng thật ra chỉ có vài thứ kẹo đặc sản như kẹo Cau, kẹo Gừng, kẹo Đậu phộng mà thôi. Những anh em ấy không chịu khổ được, không kiềm chế được cái thèm của mình nên phải ăn. Ăn mắc nợ người ta lâu ngày không trả nên người ta đến lớp đòi, các anh ấy xấu hổ bỏ học. Đã bỏ học rồi họ bỏ tu luôn. Chúng tôi nhờ kiên trì chịu khổ, chịu cực mới có ngày hôm nay.

Sau này vì thời cuộc, trường bị phân tán: Chiến tranh bùng nổ, xứ Huế quá nghèo, Hội không đủ sức đài thọ mới đưa một số học Tăng vào Nam, chỉ để lại trường một số ít thôi. Từ đó, chiến tranh liên miên, người thì chết, người thì đi kháng chiến, kẻ thì hoàn tục. Lớp của chúng tôi chỉ còn lại mấy vị như Hòa thượng Trí Tịnh, tôi, Hòa thượng Thiện Minh, Hòa thượng Trí Quang, Hòa thượng Huyền Quang cũng có. Và cũng chính trong thời gian Phật giáo cận đại cũng chỉ số anh em này ra gánh vác việc Đạo. Đó chính là nhờ trong giai đoạn học tập đã có tâm thành thật vô tư, chịu khó, chăm chỉ mà học nên sau này mới có khả năng để ra gánh vác việc Đạo như vậy. Thêm vào nữa là anh em chúng tôi hồi ấy đối với nhau rất chân tình, không có phe đảng gì cả.

Mấy hôm nay, tôi lên thăm Hồng Đức, thấy anh em nằm giường chật chội, tôi rất xót xa! Vì trong số anh em đây chắc có nhiều người ở nhà cũng thoải mái lắm, ở một mình một phòng rộng, có quạt trần, quạt để bàn; có đền trên trần, có đèn đọc sách, có đèn ngủ... Có người còn có radio, tivi, cassette, nữa. Nghĩ như vậy nên mấy hôm nay tôi cứ thấy ngậm ngùi... Bây giờ anh em ở một phòng sáu người thì tuy có hơn chúng tôi thời bấy giờ đôi chút, nhưng so với tiện nghi mà anh em có ở nhà thì ở đây còn chật chội quá! Không biết anh em có suy nghĩ gì không. Nếu thật tình mà nói như lời Phật dạy "Nhất thiết duy tâm tạo" thì chúng ta có thể vì sự học mà quên đi những thiếu thốn vật chất. Vì khi chúng ta để để hết tâm trí vào việc học rồi, thì đâu còn nghĩ đến những tiện nghi vật chất nữa. Lúc ấy đáng lẽ khổ mười phần, chúng ta chỉ thấy khổ một phần hoặc không còn thấy khổ nữa.

Lại như ngày xưa các cụ Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du... các cụ đâu có những tiện nghi vật chất như chúng ta bây giờ, mà sao các cụ cũng trở thành đại thi hào, nhà bác học lỗi lạc và còn để lại cho chúng ta những kiệt tác như thế? Xem đó, đủ biết những tiện nghi vật chất chỉ là những trợ duyên bên ngoài, cái chính nhân của sự học là tâm cầu học, là sự cố gắng nỗ lực, tích cực phát huy khả năng, trí tuệ của mình. Có thể nói anh em bây giờ học chỉ chú trọng bề rộng mà ít chú trọng bề sâu. Phật pháp có nhiều môn, môn nào hợp với khả năng của mình thì nên chú trọng môn ấy hơn, chuyên tâm sưu tầm một cách thấy đáo mới được lợi ích. Cũng như ngoài đời người ta thường nói: "Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh", nghĩa là có một nghề cho thật tinh tường, rồi khéo tay tức là thân được vinh hiển. Cũng vậy chúng ta chỉ cần một môn tinh, sâu, sau này chúng ta mới có thể làm một vị giảng sư vững vàng được.

5. Thái độ học tập

Người xưa nói người có tinh thần học là người:

Bất sỉ hạ vấn: Là không hổ thẹn khi cúi mình học hỏi người kém nhỏ hơn mình. Vì sao? Vì có người kém hơn mình nhiều điều nhưng có thể có một điều nào đó người ấy giỏi hơn mình, mình nên cúi mình học hỏi họ.

Dũ học dũ ngu: Nghĩa là càng học càng thấy ngu. Không bao giờ chúng ta được phép tự phụ cho là mình biết đủ và có ý khinh mạn sư trưởng, phải luôn luôn tự thấy mình thiếu thốn về kiến thức, về tri thức.

Tinh tiến đạo hạnh: Không những về kiến thức, tri thức mà về đạo hạnh cũng vậy. Đức Phật ngày xưa đã từng tắm rửa cho một vị Tỷ-kheo đau ốm và xâu kim cho một bà già loà mắt. Thấy vậy, có người đệ tử hỏi Ngài: "Đức Thế Tôn đã đầy đủ, viên mãn phước đức rồi, sao Ngài còn làm những việc phước nhỏ như thế nữa làm gì?" Ngài bảo: "Phước đức đối với ta không bao giờ đủ cả". Đó là một bài học cho chúng ta, Phật mà còn như vậy, huống hồ chúng ta là kẻ thiếu học, thiếu đức, chưa có gì đáng để tự phụ. Như vậy, chúng ta phải luôn luôn giữ tâm hồn trong trắng, vô tư, khiêm tốn, không kiêu căng ngạo mạn. Đó là những đức tính cần thiết để làm việc trong tương lai. Có những người rất giỏi nhưng không ai dùng cả vì quá tự phụ, vì họ thiếu đức, thiếu tu. Ở đời mà thiếu đức, thiếu tu cũng không nên làm việc lớn, huống gì trong Đạo. Vì thế, tôi mong rằng trong Viện chúng ta, anh em giữ tư cách đàng hoàng về học cũng như về hành. Học viện này tốt hay xấu, có tồn tại lâu dài hay không, còn tùy cả ở tư cách đạo đức của anh em. Chúng ta không nên chạy theo tiện nghi vật chất quá đáng, vì đã gọi là "bần Tăng tam thường bất túc" mà chúng ta xa xỉ, thừa thãi quá thì đó là điều đáng hổ thẹn.

Ý thức trách nhiệm: Mở được Học viện này là điều rất quý hóa, là niệm hoan hỷ chung cho hàng Phật tử xuất gia cũng như tại gia. Cho nên, chúng ta phải cố gắng làm sao để Học viện xứng đáng là một Học viện Phật giáo khiến cho hàng Phật tử tại gia tin tưởng vào chúng ta, tin tưởng vào tương lai đạo pháp. Đó cũng chính là một cách chúng ta hoằng dương rồi, chứ không phải đợi sau này ra thuyết giảng cho họ mới là hoằng đạo. Nếu Học viện không xứng đáng là một Học viện Phật giáo, làm cho hàng Phật tử tại gia mất tin tưởngchúng ta, ở tương lai đạo pháp, thì vô hình chung chúng ta làm cho họ thoái thất tín tâm.

Học viện đòi hỏi sự đóng góp tích cực của anh em để xây dựng Học viện vững chắc, xứng đáng là một Học viện Phật giáo bằng chính thái độ học tập nghiêm túc, ý thức giữ gìn oai nghi tế hạnh của anh em. Tôi nói như thế là để anh em thấy cái trách nhiệm chung đối với Học viện. Ngay bản thân tôi bây giờ đã gần 80 tuổi rồi, tôi không còn ham muốn gì nữa mà đành phải ra gánh vác việc chung, vì tôi nghĩ rằng mình được ngày hôm nay là nhờ ai, nhờ Tam Bảo, nên tôi phải làm việc hết mình. Trang Tử ngày xưa có nói: "Người ta ở đời có tam bất hủ là lập ngôn, lập công và lập đức". Chúng ta bây giờ cũng vậy, cái tâm cầu học, cái chí nguyện hoằng pháp lợi sinh làm sự nghiệp của chúng tathời gian không gian không thể chi phối được. Mong rằng chúng ta luôn luôn giữ vững lập trường trong giảng dạy cũng như trong học tập tấn tu Đạo nghiệp.

Tôi nói chuyện với anh em bấy nhiêu. Mong rằng anh em cố gắng, chúng ta cùng nhau xây dựng Học viện một cách tốt đẹp, làm cơ bản cho các lớp hậu học, hầu mong sau này có được những bậc Tăng Ni có thực học, thực đức để ra phục vụ Đạo pháp, báo Phật ân đức.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14892)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17831)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18242)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 15013)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13210)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21193)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32618)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15332)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12365)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12847)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27564)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12154)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34992)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17768)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11843)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12660)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14580)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32498)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19470)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12983)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14104)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14277)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15333)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14156)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14150)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11960)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53227)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11681)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13936)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13831)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20726)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14323)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13439)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13644)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34232)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16238)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14077)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14224)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13574)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15950)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13532)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 23014)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27764)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13915)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 25017)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13961)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31363)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13877)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15572)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14993)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant