Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương Mười Sáu: Nợ ân tình

15 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 6975)
Chương Mười Sáu: Nợ ân tình

T U B Ụ I

Truyện dài của Trần Kiêm Đoàn
TITAN Corporation xuất bản 2006

CHƯƠNG MƯỜI SÁU

Nợ ân tình 

 

 

 

Đêm cầm chầu của Trí Hải đã qua. Đoàn hát Phụng Vũ vẫn tiếp diễn những xuất hát mỗi đêm. Cuộc lưu diễn kéo dài đến cả hai tuần trăng mới hết. Dư vang của một đêm vui, một cuộc chơi, một lần gặp gỡ đạt đến trình độ tuyệt vời của cái đẹp tinh thần thường sống mãi trong trí nhớ của những người có mặt. Trí Hải chỉ xuất hiện một lần. Sau Trí Hải, tiếng trống chầu đêm đêm vẫn len lỏi trong bầu không khí trầm lặng của kinh thành, nhưng khán giả coi đó cũng chỉ là sinh họat tự nhiên như tiếng mõ cầm canh.

Trí Hải trở về dinh ông Hoàng với nếp sống cũ, hay nói đúng hơn là cố gắng giữ nếp sinh hoạt đều đặn hàng ngày. Nhưng cái bình thủy tinh vô hình giữ mặt thủy triều lên xuống đều đặn của tâm hồn đã vỡ. Nước tràn lênh láng. Sự kêu réo của tâm hồn khi trăn trở bơ phờ, khi quay quắt mãnh liệt làm Trí Hải không làm chủ được mình trong tương quan với hoàn cảnh xung quanh. Đêm xuống giữa ban ngày và ngày lên giữa ban đêm là một chuỗi mộng mị bất thường của những tâm hồn vừa bước qua một khúc ngoặt tình cảm. Một tình cảm bỗng nhiên dậy thì, một trạng thái tâm lý mới mẻ xâm nhập Trí Hải không chống đỡ nổi.

Bên cạnh thầy Tiều và Phạm Xảo, Trí Hải không cô độccảm thấy cô đơn. Sự cô đơn của một người đi loanh quanh để gặp lại dấu chân mình, trong một thế giới chưa hề có dấu chân ai chạm đến.

Trí Hải càng ít nói, đắm mình trong suy nghĩ, Phạm Xảo càng dè dặt. Riêng thầy Tiều thì vẫn cứ vô tư cười khúc khích. Dường như thế giới nầy đều là bạn đối với thầy. Loài vật cũng như cây cỏ xung quanh, tất cả đều rỉ rả trò chuyện không ngớt với thầy Tiều.

Chiều đến, ba người lặng lẽ vác cuốc trở về. Trên đường đi, Trí Hải nhìn về phía kinh thành thở dài. Bất ngờ, thầy Tiều tiến sát bên tai, cười cười nói nhỏ:

- Nhiễm sâu quá rồi. Khó gỡ...

Trí Hải tròn xoe mắt, hỏi lại:

- Nhiễm gì hở thầy?

- Nhiễm tình.

Tiếng "tình" có sức lay động mãnh liệt kéo Trí Hải về với thực tại:

- Tình nào? Tình gì? Sao thầy biết mà nói vậy?!

- Tiếng trống chầu đêm nọ nói hết rồi mà.

Cảm giác kỳ lạ cầm dùi trống trên tay, hình ảnh cô Ba Gấm nhẹ nhàng khuất trong đám đông và mùi nước hoa Marie Antoinette thoang thoảng như thật, như hư loáng hiện về. Trí Hải không dấu nổi sự xúc động hiện hình trong giọng nói:

- Ý thầy muốn nói đến tiếng trống chầu hát bội của tôi đêm nọ? Thầy không đi xem hát sao biết? Ơ, mà cũng chẳng có gì. Cũng chỉ là những tiếng trống điểm chầu trong tuồng hát thế thôi. Chẳng khác...

Thầy Tiều lắc lư cái đầu cười dễ dãi, trả lời:

- Tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng khánh, tiếng trống... đều có độ vang bền khác xa nhau tùy theo người tạo tiếng quý hữu à. Độ vang bền không phải là kết quả của bắp thịt mà là tiếng vọng và sức hút của hai trái tim. Trái tim tạo tiếng và trái tim nghe tiếng. Nếu trái tim Bá Nha tạo tiếng mà không có trái tim Tử Kỳ nghe tiếng thì làm sao có sự hoà điệu của tri âm. Tiếng chuông phát ra từ bàn tay của người có tâm sự u uất khác xa với tiếng chuông gõ nhẹ bởi bàn tay của vị xuất trần. Tiếng trống chầu của quý hữu trong đêm cầm chầu không u uất mà cũng chẳng xuất trần, nhưng nghe ra còn lắm đa đoan, nhiều hệ lụy giữa đời nầy.

Trí Hải hỏi dồn:

- Nguyên nhân nào từ trong tiếng trống đã làm cho thầy nghĩ như thế?

- Tiếng trống chầu đôi, chầu ba không khoan thai đều nhịp mà tiếng trước đuổi tiếng sau dập dồn như vừa đam mê, vừa lo sợ.

- Theo thầy thì từ đâu sản sinh ra nhịp trống chầu khác thường như thế?

Thầy Tiều đáp gọn lỏn:

- Sóng tình!

- Tình gì?

- Tình ái. Nỗi đam mê dính mắc của một sự rung động chợt đến.

- Làm sao để tránh nó?

- Muộn rồi!

- Sao lại muộn?

- Khối tình bên trong đã vỡ òa và đuổi theo một hình bóng...

Lần nầy đến lượt Trí Hải cười kiêu bạc:

- Biển dâu muốn tránh còn tránh được huống chi chỉ là một cuộc tình nam nữ.

Thấy Tiều nói lẩm bẩm:

- Tội nghiệp. Những người chưa bao giờ biết một tình yêu đích thực là gì mới cho rằng tránh được tình yêu dễ dàng như thế.

Chưa nghe rõ và hiểu hết ý thầy Tiều, Trí Hải hỏi lại:

- Theo thầy thì tình cảm trai gái là một "biến cố" mà khi đã xảy ra thì không thể nào tránh được sao?

- Tình cảm trai gái và quan hệ thường tình nam nữ khác với tình yêu quý hữu ạ.

- Như vậy tình yêu là gì?

- Là một trạng thái tình cảm đam mê, một ấn tượng tâm hồn sâu sắc, một sự gắn bó vô hình quấn quyện hai người tình với nhau mà chỉ có những người trong cuộc tình mới hiểu được.

- Thầy! Sao thầy đi tu mà lại hiểu sâu khái niệm tình yêu đến thế?

Thầy Tiều lại cười khúc khích:

- Ơ! Vì tôi đã yêu. Yêu mình và yêu cả thế gian đau khổ nầy.

- Thầy lại trả lời theo kiểu "huề vốn" rồi!

- Lời to. Không huề vốn đâu.

- Lời?!

- Yêu sự đau khổ mà không bị đau khổ yêu lại thì nói theo giọng nhà buôn là "một vốn bốn lời" đó quý hữu à.

- Yêu mà không nhận yêu lại là ăn gian chứ thầy.

Thầy Tiều lại cười to hơn:

- Hay! Tu là cõi phúc, tình là... ăn gian. Ha, ha... !

Dáng thầy Tiều chỉ còn là cái bóng xa dần trên đường cỏ. Trí Hải lững thững trở về với Phạm Xảo; vừa đi vừa ngẫm nghĩ đến sự bén nhạy của thầy Tiều. Nghe tiếng chuông, tiếng trống mà hiểu được nỗi lòng thầm kín của kẻ tạo tiếng và cảm xúc thực sự của người khua chuông, gióng trống thì quả thật xưa nay hiếm. Lời thầy Tiều như một chén nước lạnh đổ thêm vào khối cảm xúc đang run rẩy, ướt đẫm của Trí HảiBản chất kiêu hãnh dấu kín của một ông hoàng, sự thông minh uyên bác của một thiện tri thức và sự nhạy cảm, khao khát sống vỡ bờ của một nghệ sĩ càng làm cho Trí Hải thấy được sự yếu đuối tình cảm của mình. Mặt hồ phẳng lặng vừa bị cả một trái núi rơi xuống. Sự xao động dữ dội không ngờ. Hơn nửa đời người, Trí Hải vẫn chưa từng kinh qua cơn say tình cảm như thế bao giờ. Lần đầu say chếch choáng vì nếm phải một thứ rượu cấm không thể nào uống được làm Trí Hải muốn phủ phục, ngửa mặt đón từng giọt hiếm. Nhưng cùng lúc có những khuôn mặt dữ tợn, những bàn tay đầy đe dọa vươn ra từ phía sau kéo Trí Hải bước lùi lại. Thiên thầnma quái cùng xuất hiện một lần khiến Trí Hải vừa say mê vừa chống lại.

 

***

 

Có bóng người thấp thoáng ngoài ngõ. Phạm Xảo ra đón và trở vào ngỏ lời với Trí Hải:

- Có khách. Một người nữ muốn vào gặp hoàng thân để trao thiệp.

Trí Hải đồng ý mời vào. Thì ra, đấy là cô gái ôm khay thẻ tiền thưởng trong đêm cầm chầu. Với phong thái nghiêm cẩn đến khô khan so với dáng vẻ trẻ trung và mềm mại của mình, cô gái đặt một phong thư nhỏ lên chiếc khay rút ra từ túi xách mang theo bên mình, chắp tay thi lễ và thưa:

- Bẩm hoàng thân đại nhân, Chánh Chưởng Phủ phu nhân xin gửi thiệp này đến đại nhân. Kính xin ngài chiếu cố khai thiệp.

Trí Hải chưa vội với tay nhận thiệp mà đuổi theo dòng suy nghĩ mông lung với ý nghĩ tức thời rằng, đây hẳn là cái thiệp ngõ lời xin đến gặp của cô Ba Gấm. Những nỗi dao động tình cảm, suy tư nằm sâu kín từ đâu trong mấy ngày qua lũ lượt ùa đến. Bên nầy là sự mời gọi êm đềm: Cô Ba Gấm, quan Chánh Chưởng phu nhân, người đẹp chín muồi không dấu vết tuổi tác, một mạnh thường quân hào sảng nặng tình nghệ sĩ với nét vẽ vời thư pháp tài hoa. Từ chối không gặp lần nầy là mặc nhiên tiếp tục đóng kín cánh cửa của một đời khổ hạnh. Bên kia là chướng ngại đầy gai góc: Nhân luân, phẩm hạnh, hoàng tộc, triều đình, tiếng tăm, vinh dự. Nhận lời gặp mặt là mở cửa cho khát vọng tình cảm bùng lên. Trí Hải nhắm mắt định thần trong giây lát. Trực giác tự nhiên cho biết là cánh cửa địa ngụcthiên đường đang từ từ hé ra. Đam mêđau khổ, địa ngụcthiên đường có khi chỉ là hai mặt chẵn, lẽ của một số phận thật mong manhphi lý. Có một câu thần chú nào, một lời nguyện cầu nào linh ứng cho phút giây nầy. Có một chỗ dựa nào cho con người muốn sống thực, nhưng vẫn phải nói chuyện bâng quơ hoài trên sân khấu cuộc đời...

Tiếng cô gái nhỏ nhẹ nhắc đến lần thừ ba:

- Cung thỉnh đại nhân khai thiệp.

Trí Hải giật mình cầm lấy cái thiệp trên khay và mở ra. Vẫn mảnh giấy hoa tiên và nét chữ tài hoa bay bướm. Nhưng nội dung bức thư bằng chữ Nôm không phải là một cái thiệp xin tiếp kiến bình thường, mà là một cuộc hẹn gặp đầy quyết đoán, không cho Trí Hải một sự lựa chọn nào hơn là phải đến gặp người viết thư. Thư viết rằng:

"Kính bẩm Hoàng thân đại nhân

 Trước hết tiểu thiếp xin kính lời vấn an đại nhânMục đích thư nầy là thỉnh ý đại nhân cho tiểu thiếp được một dịp hội kiến với ngài để thanh thỏa vấn đề tiền thưởng trong đêm cầm chầu hát bội vừa qua. Dù cho đại nhân có chiếu cố chuẩn lời quá bộ đến hay không thì tiểu thiếp cũng sẽ chờ nơi nhà kiếng trong vườn cây cảnh của Tâm An vào giờ Ngọ ngày mai, mồng hai tháng Tám. Đa tạ đại nhân.

 Kính bút. Ba Gấm."

Người tiểu nữ đã ra tới cổng ngoài mà Trí Hải vẫn còn ngồi đắm mình trong suy nghĩ. Một trời hương hoa lãng mạn bay đâu mất. Cái thiệp rõ ràng chỉ là một cái thư đòi nợ. Giọng điệu trong thư khô khan và rạch ròi như một tờ thông báo hợp đồng thương mãi. Sự thất vọng từ đâu biến thành cái buồn chợt đến. Ngăn kéo tâm hồn sâu kín nhất trong Trí Hải đã báo động lầm về một hiện tượng tình cảm xảy ra đột ngột. 

Trí Hải uể oải đưa cái thiệp cho Phạm Xảo xem với lời bình luận mệt mỏi pha một chút lo lắng:

- Thanh toán tiền thưởng bằng cách nào đây huynh?

Phạm Xảo xem qua tờ thư, cười cười nhận xét:

- Có lẽ vì tôi xuất thân là con nhà tướng nên nhìn thư nầy có khác. Trong binh thư có nói: "Dụ tướng không gì bằng khích tướng." Cô Ba Gấm đem chuyện nợ nần ra để khích hoàng thân phải đến tận điểm hẹn vì lòng tự trọng chứ không thể chối từ. Chữ dùng rất khéo là "thanh thỏa" chứ không phải là "thanh toán" vấn đề tiền bạc. Nếu đây chỉ là một cái thư nhắc nhở chuyện tiền bạc tầm thường thì người viết không thể nào là một người nổi tiếng như cô Ba Gấm.

Trí Hải thắc mắc:

- Tôi chỉ biết Ba Gấm là phu nhân quan Chánh Chưởng. Thật ra bà ấy là ai và nổi tiếng như thế nào thì tôi không rõ. Huynh cũng biết về bà ấy?

- Nhiều năm qua tôi chỉ quanh quẩn trong dinh nầy nên ít biết chuyện bên ngoài. Riêng trường hợp cô Ba Gấm thì không biết cũng phải biết vì từ hàng nông dân nghèo khổ đến bậc quyền quý giàu sang đều nhắc đến "Ba Gấm" hàng ngày trên cửa miệng.

- Sao lạ vậy? Nhắc đến để làm gì?

- Tất cả mọi kiểu gấm vóc, tơ lụa dẫu có đắt tiền, đẹp đẽ đến đâu mà không mang nhãn hiệu "Ba Gấm" đều bị coi như là hàng tiểu phẩm quê mùa. Hàng đại quan, hàng triều thần lương đống, hàng quý tộc cho đến cung tần, mỹ nữ... hễ có dịp gặp nhau đều tò mò tìm một dấu hiệu ở một nơi nào đó trên áo để coi có phải đang mặc hàng Ba Gấm hay không. Những người lao động, những kẻ chân lấm tay bùn... cũng ước mơ có ngày được mặc hàng Ba Gấm.

Trí Hải vừa ngạc nhiên vừa tò mò vói tay lấy cái áo lễ hội đã hơi cũ do một người giàu có trong hoàng tộc may tặng, đưa cho Phạm Xảo xem, rồi hỏi:

- Thế cái áo nầy có phải là hàng Ba Gấm không huynh?

Phạm Xảo nhận ra ngay nhãn hiệu Ba Gấm từ góc cổ áo và chỉ cho Trí Hải:

- Chính hiệu. Cái nhãn hiệu cành hoa ba lá, nhỏ cỡ móng tay, thêu bằng chỉ nhung nầy là dấu hiệu đặc biệt của hàng Ba Gấm. Đơn giản thế mà bao năm rồi không ai giả được, hay không dám giả, nên càng làm cho hàng Ba Gấm tăng thêm giá trịnổi tiếng lừng lẫy hơn. Cái áo hàng Ba Gấm đắt giá hơn cả chục lần so với cái áo cùng loại mang nhãn hiệu khác.

Nhìn vào cành hoa ba lá thêu chỉ nhung, Trí Hải không nói gì. Phạm Xảo nhăn mặt kêu lên:

- Cái áo chỉ là phương tiện che thân thôi, tại sao người ta lại chuộng những hình thức phù phiếm đến như thế?

- Cái dụng thường có giới hạn, nhưng cái đẹp thì vô cùng. Vì vô cùng cho nên vô giá. Nụ cười của Bao Tự đáng giá cả sự nghiệp của quân vương cũng chỉ vì cái đẹp. 

Mỗi người đuổi theo một ý nghĩ riêng. Đêm tháng Tám bắt đầu lạnh.

Mặt trời càng lên cao trên đỉnh mái, Trí Hải càng bồn chồn. Trong lặng im của hai người, chỉ có tiếng Phạm Xảo cất lên đầy quyết đoán:

- Hoàng thân phải đi thôi. Dẫu không có một đồng dính túi nhưng hoàng thân còn có cả một vòng hào quang ẩn hiện trong lòng người. Nếu nói như hoàng thân hôm qua thì hào quang đó cũng là cái đẹp. Biết đâu cái đẹp nầy cũng có giá riêng của nó và có thể trả được nợ nần.

Trí Hải đặt tay lên vai Phạm Xảo. Người bạn già mang bản chất ngay thẳng của con nhà tướng nầy đối diện với thực tế một cách thật thà nhưng cũng đầy cảm động.

Mặt trời sắp đứng bóng. Trí Hải men theo con đường nhỏ ngập lá mùa Thu đi về khu vườn cây cảnh của Tâm An, lòng không yên với nhiều ý nghĩ mâu thuẫn. Gặp người thân thiện là một niềm vui; gặp kẻ thương quý là một nguồn hạnh phúc; gặp nhân vật ngưỡng mộ là một ân sủng; gặp phường gian dối là một tai họa... Nguồn suy tư đầy tràn bỗng giật mình trống không khi Trí Hải vừa nhận ra cái bóng thấp thoáng của Ba Gấm sau những tàn cây cảnh. Tâm An bỏ đi nhưng vẫn mướn người chăm sóc ngôi nhà thiền và khu vườn quý hiếm bởi có cây kỳ Nam cổ mộc. Khu vườn đẹp dáng mơ phai vì nhiều cây đã chuyển màu sang Thu.

Và đứng ở đó, nơi khu vườn vắng vẻ xao xác lá mùa Thu là một nàng Liêu Trai – nếu Liêu Trai là người đẹp thường giả dạng dưới muôn vàn hình tướngQuả thật trước mắt Trí Hải là một nàng Liêu Trai vì không thể có người thật ở xứ nầy lại ăn mặc kiểu cách vừa Âu vừa Á đẹp kiêu sa đến như vậy. Tóc không bối hay quấn thả đuôi gà mà cột cao, thắt bím hồng, để lộ cần cổ trắng ngần man dại. Áo vải thô Tây bó sát ngực và phần dưới xoè ra như áo kép tứ thân. Dáng đi thoải mái, trẻ trung chứ không điệu bộ kiểu cách kiểu các bà mệnh phụ. Nhìn kỹ, thì vẫn là đôi mắt nhung thăm thẳm vừa thông minh sắc sảo, vừa kỳ bí dịu dàng.

Trí Hải tiến tới chào trước:

- Kính chào Chánh Chưởng phu nhân. Thật là vạn hạnh mới được diện kiến phu nhân ngày hôm nay.

Người đàn bà đáp lại bằng nét cười tươi, nhưng đôi mắt vẫn không cười cùng cửa miệng. Đôi mắt đẹp mở to, dò hỏi. Đôi mắt có sức cuốn hút người đối diện vì nét kiêu sa và bí ẩn. Đôi mắt quyết đoán và lạnh lùng trong cách nhìn, nắm bắt đối tượng; nhưng đa tìnhlãng mạn khi diễn đạt:

- Dạ, kính chào hoàng thân đại nhân.

Một thoáng yên lặng hơi bỡ ngỡ làm Trí Hảicảm tưởng như mình đang bị chới với trong tầm quan sát của người trước mặt. Người đàn bà lại lên tiếng, phá vỡ mảnh im lặng khó khăn:

- Thưa hoàng thân, có thể nào chúng ta giải quyết ngay chuyện vay trả liên quan đến những thẻ thưởng trong đêm cầm chầu hát bội không ạ?

Lúng túngmột đời chưa quen với việc vay mượn bao giờ, Trí Hải hỏi mà không biết câu trả lời sẽ về đâu:

- Vâng, tôi cũng đang mong như thế nhưng trả bằng cách nào xin phu nhân cho biết.

Người đàn bà cười rất thoáng, nửa như nghịch ngợm trêu chọc, nửa như chân thành kính cẩn, trả lời:

- Vay một lần thì phải trả một lần cho hết mà thôi, thưa đại nhân.

Sự căng thẳng tinh thần nằm trong giọng nói của Trí Hải:

- Có lẽ đó là cách hợp lý nhất. Vậy, thưa phu nhân, tổng ngân khoản của toàn khay tiền thưởng là bao nhiêu?

- Là vô giá, thưa ngài.

- Xin phu nhân vui lòng nói rõ hơn...

- Là vô giá. Cái dụng thường có giới hạn, nhưng cái đẹp thì vô cùng. Vì vô cùng cho nên vô giá.

Trí Hải giật mình vì nhận ra đây là câu mình nói với Phạm Xảo hồi đêm, nhưng cũng rán hỏi, ngập ngừng:

- Ý nầy tôi nghe đâu... quen quen?

Người đàn bà bỗng cười khanh khách. Tiếng cười giòn, vui làm nứt rạn bức rào chắn hình thức nghi lễ giữa hai người. Người đàn bà hết cười, cắn môi, mặt nghiêm lại và đôi mắt trở nên buồn thăm thẳm như đang để buông trôi về một dĩ vãng:

- Của tác giả hoàng thân Trí Hải viết chung với cậu ấm Nguyễn Văn Thuyên trong sách Phù Sinh Ký đó ngài ạ.

Thảng thốt đứng bật dậy từ chỗ ngồi đối diện với người đàn bà, Trí Hải chưa tin hẳn những điều mình vừa nghe là có thật, hỏi dồn:

- Phù Sinh Ký? Tác phẩm đầu tay của ta đã bị thiêu hủy sau vụ án "văn chương phản nghịch" ấm Thuyên?

Người đàn bà vẫn ngồi điềm nhiên, giọng xa vắng có vẻ như đang nói với những kẻ vô hình năm cũ:

- Không chỉ Phù Sinh Ký mà năm tác phẩm khác về Thi, Thư, Chuyện, Ký, Sử của đại nhân vẫn còn nguyên vẹn.

Hy vọng bừng lên trong tuyệt vọng khiến Trí Hải than van một cách yếu ớt:

- Tất cả đều bị thiêu hủy. Không ai dám chống lệnh triều đình khi tả quân Lê Văn Duyệt là quan chấp sự của vụ án.

- Thưa hoàng thân, đúng là như vậy. Nhưng nội tình có khác. Việc thu sách và đốt sách được tả quân giao cho quan Chánh Chưởng.

- Ô như vậy cho nên phu nhân có cơ hội dấu một số sách không đốt?

- Dẫu sao thiếp cũng là người nhà của quan Chánh Chưởng, nên nếu muốn thì cũng có nhiều cơ hội để dấu sách, nhưng cả tàng thư của ấm Thuyên và bằng hữu có được bao nhiêu cuốn sách hay đâu mà phải mất công dấu diếm. Sách Tàu thì toàn cả kinh sử Trung Hoa xưa cũ. Sách ta thì rặt thơ văn ngâm hoa vịnh nguyệt vu vơ. Hơn nữa, thiếp không muốn vi phạm luật của triều đình đã ban ra.

Trí Hải nóng lòng hỏi cho ra sự thật:

- Nếu đã không cất dấu thì làm sao phu nhân còn giữ được những cuốn sách vừa kể trên?

- Chép. Luật triều đình không ghi điều cấm chép sách.

- Chép?! Như thế phải cần có một ban sao chép bao nhiêu người và phải làm việc mất trong bao lâu?

- Dạ, một mình! Phải chép xong trong bảy ngày đêm để cho quan Chánh Chưởng kịp thi hành án lệnh khẩn cấp.

- Lẽ nào chỉ một mình phu nhân mà chép hết mấy nghìn trang sách trong bảy ngày đêm?

- Mẹo tốc ký chấm phá của Vương Hy Chi đời Tấn và Vũ Bá Thiên đời Đường có thể giúp ghi lại cả trang sách trong dăm ba dòng bằng ký hiệu. Khi đã thích thì việc chép lại những dòng kim cổ hùng văn, những áng thiên hạ danh văn trở thành nỗi đam mê không mỏi mệt.

- Về sau ai chép lại từ ký hiệu tốc ký ra văn thường?

- Thiếp!

- Vẫn chỉ một mình?

- Dạ.

- Bao lâu?

- Ba năm.

Trí Hải từ từ nhắm mắt lại. Những hàng nước mắt chảy thành dòng.

Có từng quằn quại vì một câu thơ, từng dõi ánh mắt trỏm sâu vào đêm khuya một mình, từng xác để giữa đời mà thần trí chơi vơi bên khung trời cao viễn mới thấm hiểu dòng nước mắt ngắn dài của Trí Hải. Nghệ sĩ là người mang nghiệp nặng giữa trần gian. Sáng tạo nghệ thuật có khi chỉ là những con đom đóm ma trơi. Con đom đóm không sáng bằng một giọt nắng mặt trời, nhưng nghiệp tiền kiếp muốn đốt hết xác thân của nó thành ánh sáng. Có thể chẳng soi đường cho con kiến cỏ, nhưng con đom đóm vẫn cứ đốt sáng cho hết một kiếp lập lòe bay bổng hay nằm bẹp dí dưới những gốc cỏ dại vô danh. Nó chỉ có một đời và dám sống hết một đời cho bóng tối.

Từ từ mở mắt, nhìn sáu cuốn sách bọc trong gói lụa đào vừa được Ba Gấm mở ra, Trí Hải dang tay vươn tới. Một tay đặt lên mân mê từng cuốn sách, một tay đặt lên vai Ba Gấm như một cử chỉ gần gũi biết ơn, nghiêng mình trân trọng. Trí Hải nói như trong cơn mộng du:

- Ô! Sách cũ vẫn còn? Thưa phu nhân, Ba Gấm...

Nỗi nghẹn ngào làm cho người đàn ông hóa đá. Nhưng cơn hoá đá chỉ là một thoáng qua mau. Trí Hải rụt tay lại. Đã muộn. Bàn tay nuột nà và ấm áp của Ba Gấm đã kịp giữ bàn tay Trí Hải nằm yên trên vai mình. Ba Gấm, giọng lạc đi vì xúc động:

- Hoàng thân, đại nhân. Ngài... Huynh... Muội hiểu.

Hiểu. Có khi không cần tri thức mà chỉ cần biết mở tung cánh cửa tâm hồn đúng lúc để cho sự cảm xúc ùa vào. Ba Gấm đã từng có những cảm xúc ngây hồn và nỗi rung động tê dại khi một mình chép những dòng văn tài hoa và lãng tử của Trí Hải. Chữ như gươm, ý như lửa đi khai phá những con đường tươi mới. 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14283)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14552)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11834)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14340)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13253)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14615)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12628)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25186)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27838)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26316)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17195)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16519)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15890)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22094)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17116)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24856)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21926)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19053)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16154)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21696)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16763)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14647)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16678)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25010)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18764)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21191)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14758)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14364)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16600)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 17998)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12893)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14930)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12688)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13877)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14593)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 27965)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27139)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14329)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20913)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14660)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24151)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28625)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14723)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13275)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16422)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27189)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 11989)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16048)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21426)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12357)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant