Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương Mười Bốn: Cầm Chầu

15 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 7283)
Chương Mười Bốn: Cầm Chầu

T U B Ụ I

Truyện dài của Trần Kiêm Đoàn
TITAN Corporation xuất bản 2006

CHƯƠNG MƯỜI BỐN

Cầm Chầu 


Thời kỳ quốc tang và hiếu tang vua Gia Long đã mãn. Kinh đô vương triều bắt đầu trở lại nếp phồn hoa cũ. Phẩm phục đại triều lóng lánh phản chiếu làm nổi bật màu đỏ màu vàng chói lọi đang được phục hồi và trưng bày trở lại trong khắp Đại Nội. Áo kép, áo đơn của quan, quân, cung tần, mỹ nữ… lượt là thêu thùa hoa gấm; những bộ quần áo kiểu cách tân thời và đồ trang sức quý giá tung hô khoe sắc bắt đầu xuất hiện trở lại như để bù cho những tháng ngày cuộn mình nằm im trong rương, trong tủ.

Không khí ca xướng rộn ràng. Ca hò, hát dạo, tuồng cổ hồi sinh và phát triển như những cơn nắng mới reo ca sau mùa mưa âm u. Thể lọai sân khấu trình diễn phổ biến và được ưa chuộng nhất là hát bội. Sự lôi cuốnhấp dẫn của hát bội mạnh đến độ làm cho người ta lo sợ:

Trồng trầu trồng lộn dây tiêu,

 Con theo hát bội mẹ liều con hư!

Quanh mỗi gánh hát trình diễn thường mọc thêm phiên chợ đêm. Các gánh hàng quà vặt như bún, cháo, chè, bánh trái... tranh nhau mua bán bên ngoài trong khi đoàn hát chuẩn bị và trình diễn bên trong. Tiếng trống dạo, trống chầu giục giã đánh thức nếp sống trầm lặng thường ngày. Mùi nem nướng, thức ăn bốc lên mời gọi. Già trẻ, lớn bé mê hát quên ăn, quên ngủ.

Những gánh hát bội đến từ nhiều miền khác nhau. Nhưng nổi bật nhất vẫn là các đoàn hát bội Bình Định và hát bội Huế. Các gánh hát bội Bình Định thường rất xuất sắc trong những tuồng cổ như Tam Quốc Chí, Hán Sở Tranh Hùng, Đông Châu Liệt Quốc. Các gánh hát Huế lại nổi tiếng với những tuồng xưa được các ông hoàng bà chúa sọan lại một cách ướt át và hợp thời hợp cảnh hơn như Tuyết Hồng Lệ Sử, Kim Bình Mai, Lầu Trai Hương Phấn...

Khán giả thuộc tuồng không thua gì nghệ sĩ. Họ nhớ nằm lòng từng câu nói, từng cử chỉ, từng sự cố trong cuộc đời của Tiết Đinh San, Hoàng Phủ Thiếu Hoa, Tạ Ôn Đình, Thoại Ba Công Chúa...

Đặc biệt là những màn phụ diễn nhạc võ Tây Sơn của các đoàn hát Bình Định với những dàn trống mang tên 12 con giáp. Những nghệ sĩ nhạc võ Tây Sơn không bao giờ dám động đến hai tiếng "Tây Sơn" trong kinh đô nhà Nguyễn mà gọi là "Nhạc Võ Hùng Vương". Những diễn viên đạt đến bậc thượng thặng, siêu thặng thì khi biểu diễn đến độ xuất thần, đánh trống không cần roi trống mà chỉ dùng hai tay. Với ngón tay, bàn tay, nắm tay, cùi chỏ... khi lướt, khi phi, nhảy múa trên 12 cái trống, nghệ sĩ có thể diễn đạt nỗi lòng và tình huống qua âm vang của tiếng trống. Đôi tay tài nghệ của diễn viên khi yêu kiều lã lướt nhẹ nhàng, khi dồn dập gấp rút, khi hùng tráng đĩnh đạc... có thể "nói" lên được dòng đời qua tiếng trống. Những nghệ sĩ thượng thừa Bình Định đã tạo ra một loại nhạc pháp "Cổ bề thanh động Tràng Thành nguyệt" – Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt – vượt khỏi tầm kinh điển gọi là "Song Thủ Đả Thập Nhị Cổ" (hai tay đánh mười hai cái trống). Có những nghệ sĩ thượng thừa còn đặt thêm 5 cái trống khác ở phía sau: Một cái ngang đầu để ngã ngửa húc vào; hai cái bên hông để thúc cùi chỏ vào và hai cái đặt vừa tầm gót chân để đá hậu vào. Với dàn "nhạc cổ" (mà cũng là cổ nhạc) 17 cái trống này, những màn nhạc võ Tây Sơn kết hợp với các màn trình diễn tuồng tích hát bội đã đưa hát bội Bình Định lên đỉnh cao nghệ thuật trình diễn sân khấu đương thời tại kinh đô. Các vùng thôn ấp xa kinh đô cũng thi nhau rước những đoàn hát dạo về trình diễn. Rộn ràng nhất là thời điểm lễ hội đầu năm và sau vụ gặt Đông Xuân.

Chiều chiều, từ trên đỉnh đồi khuôn viên dinh ông Hoàng, Trí Hải có thể nghe tiếng trống dạo dập dồn của các gánh hát theo gió Nồm bay đến. Một quá khứ ngỡ như đã khép lại hiện về.

Một thời, Trí Hải và Ấm Thuyên cùng các vương tôn công tử của kinh thành đã từng rước các bầu gánh hát chân truyền về tập luyện nhạc võ Tây Sơn. Vốn là một tâm hồn tài tử nhạy cảmđam mê nghệ thuật, Trí Hải đến với hát bội Bình Định vừa như là một nhà soạn tuồng tài hoa nức tiếng, vừa là một vị Mạnh Thường Quân hào phóng không ai bì kịp. Với kiến thức uyên bác về tuồng tích và tài đánh trống uốn lượn như múa kiếm của phái nhạc võ Tây Sơn, Trí Hải được diễn viên cũng như khán giả ca ngợi, ngưỡng mộ phong là Ông Hoàng Cầm Chầu Hát Bội. Tiếng trống chầu của Trí Hải không chỉ đơn giản là hiệu lịnh âm thanh thưởng phạt mà còn là phương tiện diễn đạt.

Nghệ thuật dân gian Việt Nam đặt nặng cái trí và cái cảm ngang nhau. Khán giả thưởng thức nghệ thuật có phong cách để khen chê không phải là khối quần chúng đến xem mà phải là người vừa có tâm hồn nhạy cảm với nghệ thuật. Đấy là người cầm chầu, một nhân vật vừa có tri thức hiểu rõ nghệ thuật và vừa có vị thế xứng đáng để tỏ lời khen chê đúng mức công minh và đúng điệu nghệ thuật. 

Người cầm chầu hát bội là kẻ đại diện cho khán giả để nói lên sự thưởng phạt các diễn viên trên sân khấu qua tiếng trống chầu. Trống chầu là một thứ trống lớn được đặt trên giá ba chân. Đối với những gánh hát nhỏ, diễn viên đơn sơ, trình diễn nơi những vùng quê xa xôi thì thường chỉ có một trống chầu và một người cầm chầu. Gánh hát qui mô hơn và diễn những tuồng lớn tại các tụ điểm quan trọng thì có hai trống chầu đặt phía trước, hai bên tả hữu sân khấu và có hai vị cầm chầu. Gặp những màn trình diễn đại sân khấu trong một khung cảnh hoành tráng với sự tham dự của các nhân vật quan trọng thì có thêm một trống chầu đặt ở giữa, ngay trước sân khấu gọi là "chầu bổ". Chầu bổ thường chỉ dành cho các vị có chức phận danh tiếng. Nhân vật cầm chầu bổ không điểm trống sôi nổi và dồn dập như như hai trống chầu tả hữu mà chỉ vung tay điểm trống khi thấy cần phải nhấn mạnh những điểm nổi bật trong một câu hát tuyệt hay, một sự diễn đạt tài tình, điệu nghệ của diễn viên. Hoặc là điểm trống để bổ khuyết cho hai trống chầu tả hữu chưa thưởng phạt đúng mức.

Tiếng trống chầu của Trí Hải nức tiếng kinh thành với ngón chầu điểm xuyết thích đáng, tài hoa, bay bướm và phảng phất nét phóng khoáng, lãng tử.

Trí Hải điểm chầu theo quy cách thông thường là nếu sau một hơi hát hay thì được thưởng một tiếng "thùng", đánh ngay giữa vòng trăng tròn của mặt trống. Nếu hay hơn nữa thì được thưởng hai tiếng gọi là "chầu đôi", nếu tuyệt vời xuất sắc thì được thưởng ba tiếng trống gọi là "chầu ba". Nếu gặp khúc hát hay tuyệt luân trong không khí tưng bừng và hào hứng thì điểm nhiều tiếng liền tay. Cũng là chầu một, chầu đôi, chầu ba, chầu liên, nhưng tiếng trống điểm của Trí Hải nặng nhẹ gần như hòa điệu với hơi thở của diễn viên và vực sân khấu dậy bằng muôn trùng cảm xúc. Họa hoằn lắm người ta mới nghe một tiếng "tan" đánh lên bìa mặt trống để cảnh cáo một câu hát diễn sai quy cách như hát dọc, hát gãy, hát đâm hơi... hay diễn một điệu bộ lạc dòng, không đúng làn hơi, thanh sắc. Nghiêm khắc hơn là tiếng "cắc" gõ vào thành trống để cảnh cáo diễn viên về một sai lầm lớn hơn trong diễn xuất.

Một tiếng trống chầu của Trí Hải là một cung nhạc cao thấp, yếu mạnh, nhanh chậm... diễn đạt hết tinh hoa và thần khí của nghệ sĩ trình diễnTrí Hải nổi tiếngcẩn trọngtiết kiệm tiếng trống. Nhưng khi tiếng trống đã diểm ra rồi thì vang lên với một độ bền và độ sâu đầy ấn tượng cuốn hút vào cõi mênh mông vô biên.

Sự nghiêm khắc trong vai trò cầm chầu và kỹ thuật điểm trống điêu luyện của Trí Hải thường góp phần nâng cao nghệ thuật trình diễn của diễn viên và làm nức lòng khán giả. Với tay chầu tuyệt hảo đến độ xuất thần, tiếng trống chầu của Trí Hải thường gắn bó hài hòa với nghệ sĩ trình diễn. Tiếng trống vang lên sau câu hát vừa tròn trịa, vừa vững chãi làm giá đỡ cho làn hơi và câu hát của đào kép một cách nhịp nhàng và chí thiết.

Ngày sân khấu kinh thành tưng bừng khai mở lại, cũng là lúc Trí Hải muốn yên thân để sống đời lặng lẽ. Bên cạnh thầy Tiều, Phạm Xảo và Tâm An, Trí Hải vừa có cảm giác bình an như đã thật sự được sống mai danh ẩn tích. Nhưng vẫn có những đêm ra đứng ngắm trời, cái cảm giác cô độc vì bị đời bỏ quên lại lấm tấm trong suy tư. Trí Hải tự cảm nhận rằng, mình không có duyên tu đạo nhưng có thiện ý tu đời. Tu đời là tu bụi. Ngày ngày rủ bớt những lớp bụi ham muốn, bỏ bớt những tham vọng cao xa, quét bớt những phiền muộn quanh mình. Trong vùng an lạc trước mắt, Trí Hải vẫn không tìm ra một điểm dừng làm điểm tưa cho đời mình. Trí Hải linh cảm một điều gì đó khó hiểu như số phận vẫn không buông tha mình, vẫn chực chờ đâu đó...

 

***

 

Có tiếng xe ngựa dừng chân và tiếng người lao xao ngoài cổng dinh ông Hoàng. Phái đoàn tổ chức và trình diễn hát bội nổi tiếng nhất tại kinh thành xin vào yết kiến Hoàng thân Trí Hải. Phạm Xảo ra mở cổng rồi cùng đi vào với Sáu người. Đi đầu là ông bầu Nam Sơn, một soạn giả hát bội cựu trào rất được nể trọng và cũng là một cựu diễn viên sân khấu hát bội được nhiều người hâm mộ vì vẻ uy dũng và giọng hát tuyệt vời trong những vai khó như Quan Vân Trường, Tạ Ôn Đình, Tần Thủy Hoàng... Theo sau là nhân vật đại diện Tôn Nhân phủ. Sau cùng là bốn đào kép lẫy lừng trên sân khấu. Phía nữ chỉ có đào Nguyệt Nga, một ngôi sao đang lên trong ngành hát bội. Phường hát bội có bao nhiêu kiểu mặt, đào Nguyệt Nga đều dồi trát hóa trang thành thạo, vai nào mặt nấy, đầy quyến rũ hớp hồn khán giả. Cùng đi chung, có ba "kép độc". Kép nổi tiếng đương thời có kép Nam Xuyên, con trai của bầu Nam Sơn; kép Minh Hùng, kép Sáu Út. Tuy tài năng phát tiết mỗi người một vẻ nhưng quy tụ lại trên sân khấu thì họ đều là những ngôi sao sáng chói đã làm cho hàng vạn khán giả khắp mọi miền đất nước mê say, mong đợi.

Sáu người khách cung kính thi lễ với Trí Hải. Ông bầu Nam Sơn bày mấy món lễ vật tượng trưng trên chiếc khay gỗ chạm khảm xà cừ do đào Nguyệt Nga nhẹ nhàng nâng trên hai tay. Bầu Nam Sơn lên tiếng:

- Khải bẩm Hoàng thân đại nhân, chẳng hay quý thể vẫn khinh an; tinh thần vẫn hằng thường tự tại chứ ạ?

Trí Hải bật cười trước câu vấn an na ná như ngôn ngữ diễn tuồng, đáp lời:

- Chào nghệ sĩ Nam Sơnquý kháchChúng ta đều là chỗ quen biết cũ, lâu ngày được gặp lại, thấy quý vị đều khỏe tôi rất mừng. Nếu tôi đoán không sai thì quý vị đến đây cũng vì chuyện cầm chầu, có phải không ạ?

Mọi người cười vui vẻ. Bầu Nam Sơn trở lại với ngôn ngữ đời thường:

- Dạ, quả thậthoàng thân đoán không sai. Sắp có vụ diễn lớn trên sân khấu cung đình cho triều thần thưởng lãm và có thể có cả hoàng thượng hạ cố ghé xem nữa đấy. Bởi vậy, chúng tôi rất hãnh diện nhưng cũng rất lo lắng. Chỉ một chút sơ hở nhỏ cũng không chừng vong mạng. Nhân vật cầm chầu trong một tuồng hát quy mô và quan trọng như thế không ai có đủ bản lĩnh cao cường hơn là Hoàng thân.

Bầu Nam Sơn đưa mắt tìm sự tiếp trợ của nhân vật đại diện Tôn nhân phủ. Tôn nhân phủ là hội đồng Hoàng tộc dòng họ Nguyễn Phúc của nhà vua. Lời của vị đại diện Tôn nhân phủ tuy mang ý nghĩa nghi lễ tượng trưng, nhưng thường được coi trọng như một tiếng nói đầy danh dựquyền lực. Vị đại diện Tôn nhân phủ lên tiếng ngắn gọn:

- Kính thưa Hoàng đại huynh, mục đích đã rõ, vậy xin rước tôn huynh cầm chầu cho tuần hát mở đầu để tưởng thưởng bá quan văn võ và đại chúng triều đình đã có công phục vụ và phò trợ nghiêm cẩn nghi lễ đại tang của tiên đế trong thời gian qua.

Trí Hải nghiêm giọng trả lời:

- Nghệ thuật là nghệ thuật, triều nghi là triều nghi xin chư vị chớ lẫn lộn. Bình sinh tôi chỉ quen cầm chầu vì nghệ thuật. Tiếng trống chầu của tôi gắn liền với tài nghệ của diễn viên trên sân khấu, bất chấp khán giả là ai và không quan tâm việc họ có thích hay không. Trong trường hợp diễn tuồng trên sân khấu triều đình như một hình thức lễ nghi tưởng thưởng các quan, tôi rất tiếc là không cầm chầu được.

Mọi người đều ngạc nhiên khi đào Nguyệt Nga e dè lên tiếng:

- Dạ thưa Hoàng thân và các quan chức, lời của Hoàng thân thật chí lý. Nghệ sĩ mà phải diễn tuồng vì run sợ trên quở phạt, dưới răn đe thì cái giỏi, cái hay chỉ còn một nửa.

Bầu Nam Sơn tỏ vẻ thất vọng, băn khoăn:

- Thưa, thế thì trong hoàn cảnh nầy, đoàn hát chúng tôi phải làm sao đây?

Trí Hải trả lời không do dự:

- Đem sân khấu ra khỏi triều đình!

Bầu Nam Sơn hoảng hốt:

- Ồ chết! Dạ không được đâu. Các quan đầu triều đã quyết định và xuống chỉ thị cho đoàn hát chúng tôi phải diễn tại sân khấu triều đình.

Trí Hải nói rạch ròi như đọc trình văn:

- Ra khỏi cái sân khấu triều đình trong đầu nghệ sĩ, trong trí diễn viên chứ đâu cần phải ra khỏi cái sân khấu chạm trỗ, sơn son thếp vàng trong Đại nội...

Những người có mặt dường như chưa hiểu hết ý của Trí Hải, bỡ ngỡ nhìn nhau rồi chăm chú nhìn Trí Hải chờ đợi. Vẻ mặt không thay đổi, trí Hải tiếp lời:

- Con chim núi Ngự hát hay vì chỉ biết hát tiếng hát tự do. Con sông Hương quanh co ngoài kia đẹp vì không uốn mình cho ai cả. Cũng thế, diễn viên và nghệ sĩ phải sống tự do, sống hồn nhiên, sống tận tình với thiên chức nghệ sĩ của mình. Nếu có sợ chăng thì chỉ sợ mình bất tài không đủ sức thủ diễn, lột tả hết tinh thần của nhân vật mà mình đang đóng mà thôi. 

Những nghệ sĩ tài danh có mặt gật gù tâm đắc. Riêng người đại diện Tôn nhân phủ hỏi lại, giọng pha một chút kiêu kỳ:

- Triều đình là chốn cửu trùng mà không biết kính sợ thì còn đâu là giềng mối quốc gia, thưa đại huynh?

- Nếu giềng mối quốc gia bắt đầu từ sự kính sợ triều đình mà không bắt đầu từ sự kính sợ thiên chức của mình thì nên học Tứ Thư Ngũ Kinh để thi đỗ ra làm quan, chứ đừng học làm nghệ sĩ.

- Ô hay! Đại huynh nói vậy thì nghệ sĩ cao hơn cả nhà quan nữa sao?

- Tôn huynh đệ à, chúng ta đang bàn về chốn nghệ thuật. Nhà quan không có mặt ở nơi nầy.

Sau câu đối đáp của người Tôn nhân phủ và Trí Hải, bầu không khí rơi vào im lặngIm lặngmọi người đều đồng ý với Trí Hải về vai trò người nghệ sĩ, nhưng tìm đâu cho ra một thế giới nghệ thuật đích thực trên mặt đất nầy. Một mặt đất ngự trị bởi giống người. Con người thưởng thứcrung động với nghệ thuật nhưng lại cố quay mặt đi và ném vào mặt nghệ sĩ lời bình phẩm bất công và thô bạo: "Xướng ca vô loại!" Chính sự im lặng kéo dài với sự hiện diện của những người "quan trọng" đã chinh phục được Trí Hải. Chỉ có sự im lặng mới là ngôn ngữ chung của những tâm hồn bão nổi. Sự im lặng bên nhau là một thái độ cảm thông và an hòa mang nhiều ý nghĩa tích cực nhất. 

Trí Hải nâng chén trà, ngỏ lời:

- Mời chư vị nhấm trà. Thưa nghệ sĩ Nam San và chư vị, tôi nhận lời cầm chầu. Nhưng tôi chưa rõ là sẽ ở vai nào, chầu tả, chầu hữu hay chầu bổ?

Bầu Nam San giải thích:

- Chắc chắn là tình huống cũng như những năm xưa, Hoàng đại nhân sẽ cầm chầu bổ. Nhưng hai chầu tả hữu sẽ xin gác chầu để cung thỉnh Hoàng đại nhân vào vai đệ nhứt chánh chầu. 

- Tuồng đầu sẽ là tuồng gì vậy?

- Thưa, tuồng Đào Viên Tụ Nghĩa.

- Sao laị không giữ nguyên bản Đào Viên Kết Nghĩa của quý huynh mà lại đổi thành Đào Viên Tụ Nghĩa vậy kìa?

- Vâng, đã bao năm diễn tuồng, hiệu đính và thay đổi tôi mới luận ra rằng kết nghĩa không hay bằng tụ nghĩa. Kết rồi chia, hợp rồi tan, nhưng cần phải tụ lại mới làm nên việc lớn. Quả thật là ba anh em Lưu, Quan, Trương kết nghĩa ở Vườn Đào. Nhưng đấy chỉ mới là giai đọan đầu gặp gỡ để mưu cầu sự tụ nghĩa của thiên hạ mới làm nên việc lớn được.

Đào Nguyệt Nga duyên dáng chen vào:

- Vậy hôm nay chúng ta may mắn gặp nhau ở dinh Hoàng thânkết nghĩa hay tụ nghĩa đây?

- Bẩm Hoàng thân và thưa chư quan viên, có lẽ cả hai ạ. Kết nghĩa để diễn tuồng và tụ nghĩa để làm vui cho thiên hạ.

Mọi người cười xoà và vui vẻ chia tay sau câu nói của kép độc Nam Xuyên.

Tiễn khách về, Trí Hải cảm nhận một niềm lo lắng vô hình vừa ập đến. Tuy chưa định hình được mối lo là gì và từ đâu đến, nhưng lần nầy, nhận lời cầm chầu xong Trí Hải cảm thấy như sắp thiếu một cái gì rất gần gũi và thân quen. Điểm lại những đêm cầm chầu hát bội trong những màn hát huy hoàng ngày trước, Trí Hải gợi lại trong trí từng khuôn mặt thân cận. Phạm Xảo chăm chút lo khăn là áo lượt cho chủ nhân từ ba ngày trước. Cô hầu thiếp Ngọc Tú chuẩn bị tráp trầu thuốc. Trưởng Thái Ấp chuẩn bị đèn lọng. Đông Hoàng phi đánh bóng khay bạch trắc khảm ngọc để đựng đầy các thẻ tiền thưởng... Nghĩ đến đây, Trí Hải giật mình đứng phắt dậy với tiếng kêu vang động không lọt ra khỏi miệng thành lời: "Tiền! Phải rồi, tiền!" Tiền thưởng mà tiếng nhà nghề gọi là "Thướng". Tiền đâu để ba ngày nữa cầm chầu mà thưởng bây giờ.

Trí Hải đã trải qua một chặng đời chẳng chút bận tâm về tiền bạc, vật chất. Tất cả nhu cầu vật chất tiêu dùng hàng ngày đều có người lo. Thời trẻ tuổi theo phò hoàng Tử Cảnh thì mọi việc đều đã có hai chính phủ Pháp Việt lo. Khi trưởng thành, làm chủ Thái Ấp với mấy trăm mẫu đất nhất đẳng điền, tiền bạc kho lẫm lúc nào cũng đầy ắp và có cả đoàn gia nhân lo xếp đặt mọi việc liên quan đến cơm áo gạo tiền, vui chơi, đìng đám.

Trí Hải không tài nào ngủ được khi tiếng trống chầu từ quá khứ cứ liên tục dội về. Theo tiếng trống thúc chầu đơn, chầu đôi, chầu ba, chầu liên là những thẻ thưởng tiền từ chiếc khay chạm ngọc được người hầu cận ném bay lên sân khấu. Thẻ bạc, thẻ vàng và thẻ hồng bảo bay lóng láng dưới ánh đèn như tín hiệu khẳng định giá trị của nghệ thuật. Sau buổi trình diễn, đoàn hát sẽ mang thẻ thướng để ban tổ chức đổi thành tiền. Thẻ bạc năm quan, thẻ vàng mười quan, thẻ hồng bảo một lạng bạc. Năm lạng bạc đổi được một lạng vàng. Trí Hải nhớ như in sức mạnhlinh hồn của tiền thưởng đối với các diễn viên và ngay đối với khán giả. Tiền thưởng như một thước đo tiêu biểu đối với tài năng và nghệ thuật của diễn viên sân khấu đương thời. Tiếng trống chầu đôi hay chầu ba chỉ là môt kiểu cách thể hiện âm thanh suông nếu không có các thẻ tiền thưởng đi kèm làm biểu chứng. Trí Hải lạnh mình khi nhớ lại những màn diễn hài của những tên hề mạt hạng dành cho những tay cầm chầu kiết cú, không thưởng tiền thích đáng.

Trí Hải không biết phải xử trí bằng cách nào. Không lẽ rút lui cầm chầu vì thiếu tiền? Chẳng lẽ tiến tới cầm chầu mà không tiền? Tất cả những câu danh ngôn về tiền đều hay, nhưng toàn là những câu nói đến việc cần phải tiêu tiền như thế nào cho thích đáng. Chẳng có câu nào chịu khó nói đến việc làm sao để kiếm ra tiền dễ dàng hơn.

Nỗi ưu tư của Trí Hải lan dần qua Phạm Xảo. Bao nhiêu năm hầu cận, gần gũi với Trí Hải, Phạm Xảo chẳng bao giờ hỏi chủ một đồng lương. Tất cả đều tự nguyện. Xuất thân là một vị tướng, Phạm Xảo mang những thành bại trên chiến trường làm đơn vị đổi chác. Tướng khai quốc công thần đem mạng sống của chính mình làm tài sản cho đất nước. Tướng quốc phá gia vong đem đất nước làm tài sản cho mình. Cũng như Trí Hải bên cạnh hoàng tử Cảnh, một đời xuôi ngược bên cạnh Nguyễn Ánh, Phạm Xảo không biết đến tiền. Giờ đây hai ông "tiên không dính đến tiền" bỗng đối diện với thực tế. Một thực tế mà trong đó đồng tiền là bảng thang giá trị, là huyết mạch cho đời sống giao lưu trao đổi đầy sinh động.

Càng gần đến ngày diễn tuồng, Trí Hải càng cảm thấy xuống tinh thần và quay quắt như sắp ngồi trên lửa đỏ. Một ông Hoàng tiếng tăm lừng lẫy sắp tự thú một cách gần như công khai trước mọi người, trước quan chức triều đình rằng, mình là kẻ khánh tận, mình là người trắng tay, mình nghèo khổ đến độ không có chút tiền thưởng cho con hát lúc cầm chầu.

Gặp thầy Tiều trên vườn rau, Trí Hải không muốn chào hỏi gần gũi như trước mà chỉ muốn tách vào bụi rậm ngồi suy nghĩ một mìnhVẻ mặt lúc nào cũng hồn nhiên tươi cười của thầy Tiều như trên thế gian nầy đã hết mọi nỗi phiền muộn và khổ đau làm cho Trí Hải tăng thêm sự bực mình trong lúc nầy.

Đang muốn yên thân, tiếng cười khúc khích của thầy Tiều lại đến gần, lên tiếng:

- Hì! Hì! Này hoàng thân, quý hữu đang lo lắm phải không?

Biết là sẽ không có điều gì có thể dấu diếm hay qua mặt vị sư nầy, Trí Hải trả lời cộc lốc:

- Đời là bể khổ mà thầy, ai lại chả có chuyện lúc nầy hay lúc khác phải lo.

Thầy Tiều lại cười, vui vẻ đáp lại:

- Bể khổ cũng như bầy dán, càng xua đuổi trên bề mặt chúng lại càng sinh sôi nẩy nởÝ nghĩ càng rối rắm lộn tùng phèo như căn nhà đầy rác, bầy dán lại có đất tốt để thành bầy, thành lũ nhanh hơn. Quét nhà cho sạch dán sẽ không sinh. Lọc trí mình cho sáng, bể khổ sẽ cạn dần. 

- Thầy à, ý thầy nói là người ta có thể diệt được nổi khổ một cách dễ dàng và chủ động như thể quét bầy dán phải không?

- Chỉ dễ dàng khi biết được đâu là cái gốc để đốn từ gốc.

- Vậy thì một người đang cần tiền chẳng hạn thì đâu là cái gốc để kiếm ra tiền đây?

- Tiền không phải là cái gốc mà cái gốc là tại sao phải cần tiền và tiền để mua gì?

- Chẳng mua gì cả, nhưng phải cần tiền để thưởng cho con hát lúc cầm chầu.

Thầy Tiều lại cười hề hề vào vẻ ưu tư của Trí Hải:

- Hì, hì! Quý hữu coi bộ sắp tìm ra cái gốc của tiền rồi đó. Cần tiền để cầm chầu cho đẹp; cầm chầu cho đẹp để mua danh; mua danh cho cho nhiều để trội hơn thiên hạ. Nếu giữ Trí Hải vẫn là Trí Hải. Đừng hơn mà cũng chẳng thua ai cả. Không tránh mà cũng chẳng gây. Có tiền cho con hát thì cầm chầu cho vui, mà không có tiền thì đừng cầm chầu. Có sao đâu.

- Nhận lời cầm chầu cho gánh hát bội Nam Sơn lần nầy tôi chẳng mua danh hay bán danh gì cả. Đây chỉ là một việc làm cần thiết mà tôi phải làm thôi.

- Con người ta sinh ra, lớn lên, làm việc kiếm ăn, già nua, rồi chết là một chuỗi sự việc biến hiện lập đi lập lại hoài trên dòng sống bất tận. Trước ngày ta sinh ra và sau ngày ta chết đi thì dòng đời vẫn trôi xuôi không đổi khác. Có gì là cần thiết đâu.

Trí Hải không bắt gặp một nét gì thắc mắc hay băn khoăn trên khuôn mặt thầy Tiều, hỏi lại:

- Nếu thầy không thấy bất cứ một việc gì là cần thiết, sao thầy lại phải đi tu. Như thế, việc đi tu của thầy có cần thiết không?

Lắc lư đầu ra chiều thích thú, thầy Tiều nói giọng khề khà như kể chuyện:

- Đi tu có cần thiết không? Có ai trả lời hộ cho ai được điều nầy. Thử nói chuyện một ông chài sinh ra trong một chiếc thuyền đánh cá nghèo khổ trên sông Hương. Có lẽ đây là một câu chuyện đời đơn giản nhất mà ai cũng đã từng gặp. Lớn lên, anh chài theo nghề cha mẹ bắt cá trên sông để sống. Có một ngày mưa to gió lớn gây cuồng lũ. Thuyền chìm. Ông chài không bơi nổi. Chết chìm. Chết vì tình cờ hay số mệnh? Ông chài kia đâu có chọn lựa sinh ra trên thuyền chài nghèo khổ. Ông ta cũng không chọn lựa chết chìmCuộc đời đơn giản và thầm lặng của ông chài cũng đầy những biến cố chằng chịt theo một cách riêng của ông ta. Việc gì cũng có vẻ cần thiếtthực ra cũng chẳng có gì là cần thiết. Vì tất cả mọi việc lớn nhỏ đều là những phản ứng qua lại. Người ta càng lăn xả vào đời sống thì chuỗi phản ứng càng nhanh và càng rắc rối dính chùm với nhau. Nhu cầu càng tăng, người ta càng tốc lực chạy theo tìm phương tiện để thỏa mãn nhu cầu. Quý hữu, cầm chầu vì cho rằng việc đó rất cần thiết. Cũng có người cho đấy là một việc làm không cần thiết nên khuyên quý hữu khỏi cần bận tâm. Không ai trả lời thay cho quý hữu được cả. Và dù có trả lời thì chắc gì đã đúng.

Chưa hiểu rõ thầy Tiều muốn dẫn câu chuyện về đâu, Trí Hải hỏi lại:

- Vậy theo thầy thì việc cầm chầu hát bội là không cần thiết và tôi nên từ chối việc đó?

- Quý hữu đặt câu trả lời trước câu hỏi rồi.

- Thứ tự xuất hiện trước hay sau có phải là nhân quả của nhau không, thưa thầy?

- Tất cả đều cần và tất cả đều không cần. Khi đã gieo giống thì cần hay không cần cũng phải gặt quả. Tiếng hát là quả của diễn viên, nhưng là nhân của người cầm chầu. Tiếng trống, tiền thưởng là quả của người cầm chầu, nhưng là nhân của người diễn viên. Cứ thế, mọi việc tác động lên nhau và biến hiện không ngừng.

Trí Hải vẫn không rời được ý nghĩ về cuộc cầm chầu sắp đến, hỏi thầy Tiều:

- Tại sao tôi lại phải loay hoay về những điều tầm thường mà trước đây tôi không màng nghĩ đến, như ý nghĩ về tiền bạc chẳng hạn.

- Tất cả đều nằm sẵn sờ sờ ra đó. Không gọi thì không thưa, không nghĩ thì không hay, không tìm thì không thấy. Chẳng có gì tầm thường mà cũng chẳng có gì cao quý.

Giọng buồn buồn, Trí Hải nói như luyến tiếc:

- Tiếng trống chầu tưởng đã vắng, nào ngờ nó đến như một tảng đá ném xuống dòng sông yên tĩnh của lòng tôi.

Thầy Tiều giọng xác quyết hơn:

- Đá chẻ dòng sông nổi sóng, nhưng khi đá chìm rồi thì dòng sông sẽ lặng.

- Phải chờ đến bao lâu mới lặng?

- Sông không dính đá, đá chẳng dính sông, nên chỉ khoảnh khắc nước chảy, đá chìm thì sông lặng.

- Giữa đời làm sao không dính? Chỉ một cái tâm mà phải chịu cả hai thái cực, an bình và náo loạn thì làm sao mà phân định rạch ròi?

- Quý hữu muốn đi tìm sự an lạc hay đi tìm sự náo loạn của tâm thần? Cũng chính nơi nầy, Tâm An đã không chịu nổi sự nhiễu loạn tinh thần, phải bỏ đi vì khả năng kinh doanh cây cảnh có quá nhiều tiền nên chí tu học không bền vì chỉ lo loay hoay kiếm phương tiện để xây chùa to, viện lớn. Và ở đây, phút nầy, quý hữu cũng đang bị nhiễu loạn tâm thần vì không có tiền cho cuộc chầu sắp đến. Nhiều tiền và không tiền là hai đối cực sinh ra giao động. Chỉ mấy ngày trước đây thôi thì quý hữu cũng như tôi bây giờ. Chẳng có gì nắm trong tay. Chẳng có gì cần sở hữu. Đời sống như một con thoi trở về ngưng lại điểm giữa của khung cửi cuộc đời; không bị đưa qua phải, không bị đưa về bên trái nên lặng yên nơi điểm giữa. Điểm giữa là điểm dừng. Điểm dừng là trung đạo, là gốc của suối nguồn an lạc.

- Vậy tôi phải làm sao?

- Quên phứt nó đi.

- Nghĩa là... ?

- Dùi trống cầm trên tay thì đánh. Hát hay thì khen. Hát dở thì chê. Có tiền thì cho. Không có tiền thì không cho. Đừng sợ ai cười mà cũng chẳng cầu ai khen. Rán tìm cái tĩnh trong cái động. Đừng dính mắc thì thân tâm an lạc. Đã làm điều gì thì phải làm rốt ráo, làm tới nơi tới chốn. Đừng bán lộ đào hồi, nửa đường bỏ chạy.

Trí Hải cười xòa:

- Lại "đừng dính mắc"! Thầy làm tôi nhớ ván cờ quyết đấu với Hàn Kỳ Vương trên sông Hương.

Thầy Tiều cùng cười:

- Trên sông chẳng còn in bóng, nhưng ván cờ dĩ vãng vẫn còn tiếp diễn trong lòng quý hữu sao? Ví thử hôm đó cả quý hữu cùng Hàn Kỳ Vương cùng bị sóng nước cuốn trôi giữa dòng cuồng lũ, hoàn toàn mất dạng thì cũng chẳng có gì thay đổi. Người đời sẽ nhắc đến đôi khi và quên đi vĩnh viễn.

- Nghĩa là mọi việc đến rồi đi, còn và mất chẳng có gì quan trọng cả?

Thầy Tiều lại quay xuống với vườn rau, vừa bước vừa ngoái lại, nhắn với:

- Có chứ! Có một điều quan trọng là chả có gì quan trọng cả!

Tiếng cười của hai người dòn giã, vang vọng một góc vườn.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14307)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14566)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11846)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14369)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13281)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14650)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12648)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25265)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27897)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26372)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17237)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16528)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15919)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22149)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17138)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24928)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21991)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19082)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16175)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21728)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16789)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14672)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16713)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25029)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18784)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21199)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14779)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14378)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16621)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18016)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12931)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14949)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12722)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13892)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14608)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28047)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27215)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14353)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20975)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14673)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24198)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28703)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14738)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13301)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16464)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27257)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12021)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16081)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21504)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12379)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant